Lò Thị Loan

Bán một mảnh đất cho hai người thì có cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản?

Luật sư tư vấn về các dấu hiệu để cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Hành vi bán một mảnh đất cho hai người có cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay không? Việc tự ý chặt phá cây của người khác thì cấu thành tội gì theo quy định của pháp luật.

 

Luật sư tư vấn về: Tôi gửi nội dung sự việc để được tư vấn về pháp luật như sau: Vào tháng 05/2016 tôi có mua 1ha đất  chưa có giấy chủ quyền (có giấy xác nhận  nguồn gốc đứng tên ông Vũ Bá N), làm giấy đặt cọc 100 triệu, giá bán 500 triệu đồng, giao kết bên bán làm mọi giấy tờ cho bên mua xong sẽ trả tiền đủ, khi bên mua làm ủy quyền thời hạn 20 năm có chứng thực của xã, còn việc đổi tên trên sơ đồ gốc ở phòng TN-MT không làm được. Do vậy bên bán ông N đồng ý giảm giá tiền mua bán xuống còn 380 triệu và làm Hợp đồng (giấy) mua bán giá 380 triệu. Mọi việc mua bán đã thực hiện xong vào tháng 8/2016 và ông N cũng đã giao đất cho tôi phát dọn, quản lý  sử dụng đến nay. Vào 30/07/2017 tôi hay tin ông N tiếp tục đứng ra bán thửa đất của tôi cho người khác tên G, ông G thuê người chặt phá cây tràm trên thửa đất của tôi. Tôi hay tin hỏi cả 2 bên đều thừa nhận có thực hiện việc mua bán và có làm giấy tay với nhau, lúc đầu ông N cho rằng đứng ra bán dùm cho tôi với giá 90 triệu đồng/công, để tôi cho tiền hoa hồng, mấy ngày sau ông N nói tại tôi mua bán trên hợp đồng đặt cọc ghi số tiền 500 triệu mà trả mới hơn 300 triệu, tôi còn nợ hơn 100 triệu nên bể hợp đồng thì bán cho người khác, ông N còn hăm sẽ kiện tôi ra tòa dân sự (vì lúc đặt cọc hợp đồng lập thành 2 bản, khi trả tiền đủ ký Hợp đồng mua bán xong do sơ ý tôi quên thu hồi lại và tôi nghĩ không còn giá trị nữa). Vậy tôi xin hỏi trường hợp này tôi kiện tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có xử lý được không? Hay tôi kiện với tội phải kiện ông N với tội danh gì? Đồng thời ông G đã cho người vào đất tôi phát dọn, chặt cây tràm của tôi thì phạm tội gì? Có đủ yếu tố để xử tội hủy hoại tài sản không? Ngang nhiên vô chiếm đoạt đất tôi có phải tội cưỡng đoạt tài sản không? Rất mong được sự nhiệt tình tư vấn của luật sư. Chân thành cám ơn!     

 

Trả lời: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia, trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau: 

 

Thứ nhất về hành vi bán đất của ông N.

 

Theo điều 139, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau: “1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.”

 

Lừa đảo chiếm đoạt tài sản được hiểu là hành vi dùng thủ đoạn gian dối làm cho chủ sở hữu, người quản lý tài sản tin nhầm giao tài sản cho người phạm tội để chiếm đoạt tài sản đó.

 

Về khách quan, phải có hành vi dùng thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản. Dùng thủ đoạn gian dối là đưa ra thông tin giả (không đúng sự thật) nhưng làm cho người khác tin đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội. Việc đưa ra thông tin giả có thể bằng nhiều hình thức khác như giả vờ vay, mượn, thuê để chiếm đoạt tài sản.

 

Về mặt chủ quan, lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý.

 

Khách thể là quyền sở hữu tài sản của người khác.

 

Chủ thể là bất cứ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự.

 

Theo thông tin bạn cung cấp, hành vi của ông N tự ý bán đất cho ông G chưa đủ điều kiện cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Hành vi của ông N chỉ là hành vi vi phạm hợp đồng mua bán giữa 2 bên mà thôi. Bạn có thể gửi đơn khởi kiện dân sự để yêu cầu giải quyết tranh chấp trong trường hợp này.

 

Thứ hai, về hành vi ông G vào nhất nhà bạn phát dọn, chặt cây chàm.

 

Điều 135, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về Tội cưỡng đoạt tài sản như sau:

 

“1. Người nào  đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.”

 

Đặc trưng cơ bản của tội cưỡng đoạt tài sản là người phạm tội đã có hành vi uy hiếp tinh thần của người có trách nhiệm về tài sản bằng những thủ đoạn đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác làm cho người có trách nhiệm về tài sản lo sợ mà phải giao tài sản cho người phạm tội.

 

Đe doạ sẽ dùng vũ lực là hành vi (lời nói hoặc hành động) làm cho người bị đe doạ sợ nếu không giao tài sản cho  người phạm tội thì sẽ bị đánh đập tra khảo, bị đau đớn về thể xác.

 

Thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần là những thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng để uy hiếp tinh thần của người có tài sản hoặc của người có trách nhiệm về tài sản như: Doạ sẽ tố cáo với chồng về việc vợ ngoại tình, doạ sẽ tố cáo việc phạm tội hoặc việc làm sai trái của người có tài sản hoặc người có tránh nhiệm về tài sản.v.v...

 

Có thể nói, cưỡng đoạt tài sản là tìm mọi cách làm cho người có tài sản hoặc người có trách nhiệm về tài sản sợ hãi phải giao tài sản cho người phạm tội. 

 

Như vậy, hành vi của ông G không cấu thành tội cưỡng đoạt tài sản theo BLHS.

 

Điều 143, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản như sau:

 

“1. Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác gây thiệt hại từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ  sáu tháng đến ba năm.”

 

Theo như thông tin bạn cung cấp thì ông G đã biết việc mua bán đất giữa ông N và bạn, ông G biết rừng tràm trong mảnh đất này là tài sản của bạn nhưng vẫn cố tình vào chặt phá.

 

Nếu thiệt hại từ 2 triệu đồng trở lên hoặc dưới 2 triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì ông G phạm tội cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác.

 

Bạn có thể làm đơn gửi tới cơ quan công an yêu cầu họ giải quyết trường hợp này.   

                                                                                                          

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn hỏi và quan tâm. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ cần luật sư giải đáp, bạn vui lòng gọi đến Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến của chúng tôi - Số điện thoại liên hệ: 1900.6169 để được hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng.
Luật gia / CV tư vấn: Hương Giang. - Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

0971.166.169