Nguyễn Ngọc Ánh

Tư vấn về việc tranh chấp đất đai./.

Xin chào luật sư. Gia đình bố tôi là trưởng họ và bố tôi là trưởng họ của đời thứ 6. Mảnh đất nhà tôi đang ở hiện nay theo các cụ nói lại là bắt đầu từ đời thứ 3. Đời thứ 3 trưởng họ sinh được 6 người con: 4 trai, 2 gái. 2 người con gái đi lấy chồng không được chia đất, 4 người con trai thì được chia mỗi người 1 mảnh.

 

Nội dung yêu cầu: Cụ tôi( đời thứ 4) là con trưởng nên ở chính giữa. Bên tay trái ngôi nhà là mảnh đất chia cho người con thứ 3 và 4. Bên tay phải ngôi nhà là chia cho người con thứ 2.     Đời thứ 4 (tức cụ tôi) sinh được 4 người con: 3 gái, 1 trai. Vì có 1 người con trai nên vẫn ở tại mảnh đất đấy và thờ cúng tổ tiên.     Đời thứ 5 (Tức ông nội tôi) sinh được 5 người con: 3 trai, 2 gái. Người con cả là bác tôi đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Bố tôi là người con trai thứ 2 chính vì vậy sau khi ông nội tôi qua đời thì chức trưởng họ sẽ được chuyển sang cho bố tôi.     Đời thứ 6 (Tức bố tôi) sinh được 4 người con gái. Khi ông nội tôi còn sống có thông báo trước cả họ là sau khi bố tôi mất thì chức trưởng họ sẽ chuyển sang cho cháu trai( con của người con trai thứ 3 của ông tôi).     Trước đây nhà nước chưa cấp giấy chứng nhận quyền sử đất, mãi đến năm 1998 thì mới cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ dân. Khi đó ông tôi đang có 2 mảnh đất 1 mảnh là mảnh ông đang ở cùng với gia đình tôi và đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi đó là bố tôi. Mảnh còn lại ông cho chú tôi người con trai thứ 3 của ông ở từ năm 1993 và lúc này ông đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của mảnh đất đó.    Năm 1999 bà nội tôi mất, năm 2001 ông nội tôi cũng qua đời. Khi qua đời ông cũng không để lại di chúc nói gì về mảnh đất của gia đình tôi và của gia đình nhà chú tôi cả.     Năm 2004 nhà nước có chuyển đổi và cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì 2 mảnh đất của ông tôi vẫn được giữ tên như năm 1998 không có sự thay đổi nào cả.     Mãi đến năm 2012 chú tôi mới làm thủ tục sang tên mảnh đất chú đang ở từ tên của ông nội sang tên của chú và lúc này thì đều được sự đồng ý của các con của ông nội tôi.     Năm 2015 bố tôi mất, sau khi bố tôi mất được mấy tháng thì mẹ tôi có làm thủ tục chuyển tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ tên bố sang tên mẹ tôi và sau đó cũng làm thủ tục cắt 1 phần đất đó cho người con gái thứ 3 theo như ý của bố tôi trước khi còn sống ( bố tôi mất chưa kịp làm di chúc). Khi biết ý định của mẹ tôi là cho con gái 1 phần đất thì lúc này  người con trai thứ 3 của ông tôi (tức chú tôi) có làm đơn ra xã yêu cầu xã không được giải quyết việc chia cắt mảnh đất cho con gái của mẹ tôi.     Sau khi nhận được đơn của chú tôi sau 1 thời gian xã có mời cả 2 bên ra để giải quyết. Xã xem xét toàn bộ hồ sơ về đất đai của gia đình tôi là hợp pháp và mẹ tôi có thể cắt đất cho con gái của mình điều này không trái pháp luật.     Sau 1 thời gian thì chú tôi và những người trong họ đã làm đơn yêu cầu xã giải quyết, đồng thời cũng gửi đơn lên UBND Huyện nói mảnh đất mà nhà tôi đang ở là mảnh đất của tổ tiên, mẹ tôi chỉ được ở đến khi mẹ tôi qua đời và sau khi mẹ tôi mất mảnh đất đó sẽ trao trả lại cho người trưởng họ tiếp theo. Đồng thời cũng có ý kiến là mẹ tôi tự ý sang tên mình và lầm tưởng mảnh đất đó là mảnh đất của ông bà nội tôi thì khi sang tên cũng không được sự đồng ý của các con của ông bà tôi. Ngay cả khi năm 1998 khi làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hiện giờ chú tôi vẫn có nói là khi đó ông bà tôi vẫn còn khỏe mạnh tại sao việc bố tôi đứng tên ông bà lại không biết và các con của ông bà cũng thế. Nếu bố tôi có tự ý làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên mình mà ông không biết cũng không bao giờ được, phải được sự đồng ý của ông nội tôi thì mới được như thế, nhưng điều này lại không có giấy tờ chứng minh.Đời thứ nhất và đời thứ 2 các cụ đều ở mảnh đất khác( cái này được ghi chép trong gia phả của dòng họ có chú thích lại hiện tại mảnh đất đấy hiện giờ nhà ai đang ở). Đời thứ 2 ông trưởng họ không có con trai nên chức trưởng họ được chuyển sang cho người con thứ của cụ Tổ. Khi ông nội tôi còn sống thì các ngày giỗ của các cụ tổ tự ông cúng giỗ và hàng năm họ chỉ tập trung 1 ngày là 20/12 âm lịch đây là ngày quét lăng tảo mộ con cháu tập trung về để sửa sang, dọn dẹp mồ mả và cúng mời các cụ về ăn tết. Đến đời bố tôi thì mở rộng thêm ngày giỗ cho 2 cụ tổ và thay phiên mỗi năm làm 1 cái giỗ.Năm 2011 bố tôi có đồng ý cho họ mượn gian giữa để để án gian và sập. Khi bố tôi còn sống thì các ông trong họ cũng không dám khẳng định đất này là đất tổ tiên vậy mà khi bố tôi mất đi lại cho rằng đất này là đất tổ tiên. Gia đình tôi biết rằng mình không có con trai nên cũng đã có ý định cung tiến 1 phần đất để họ làm nơi thờ cúng vì có nhiều ý kiến của người trong họ là họ sẽ không theo về nhà ông trưởng mới để cúng giỗ. Lúc đầu họ cũng cảm ơn ý tốt của gia đình và sẽ họp bàn đưa ra ý kiến trước cuộc họp họ. Nhưng khi họp họ nhiều ý kiến lại cho rằng họ phải thờ ở chính giữa không đồng ý xê dịch đi đâu cả và muốn toàn quyền sử dụng ngôi nhà đó.      Giờ bản thân tôi thật sự cũng rất rối không biết nên giải quyết như thế nào, rất mong nhận được sự tư vấn của luật sư.   

 

Trả lời: Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi yêu cầu tới Công ty Luật Minh Gia! Yêu cầu của bạn được tư vấn như sau:

 

Theo bạn trình bày, mặc dù đất đã được sử dụng qua nhiều đời nhưng tới năm 1988 Nhà nước mới cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vậy, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất buộc phải tuân thủ theo quy định tại Luật đất đai 1993 ngày 14 tháng 7 năm 1993.

 

 Điều 2

 

“1- Người sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận thì được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

 

2- Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

 

3- Nhà nước có chính sách bảo đảm cho người làm nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, lâm nghiệp có đất sản xuất”.

 

Đối với vụ việc trên, nếu có căn cứ chứng minh thửa đất đang tranh chấp là di sản thừa kế dùng vào việc thờ cúng, thì theo quy định của pháp luật việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cá nhân sở hữu không phù hợp.

 

Tuy nhiên, Điều 21 Pháp lệnh về thừa kế năm 1990 quy định người có tài sản trước khi chết được quyền để lại di sản của mình dùng vào việc thờ cũng và chỉ định người quản lý nhưng phải thể hiện bằng di chúc. Trong vụ việc trên, mặc dù có đề cập tới thờ cúng nhưng từ đời thứ 3 tới đời thứ 6 không có bất kỳ nội dung vào đề cập tới vấn đề trên.

 

Di sản dùng vào việc thờ cúng

 

Nếu người lập di chúc có để di sản dùng vào việc thờ cúng thì di sản đó được coi như di sản chưa chia. Khi việc thờ cúng không được thực hiện theo di chúc thì những người thừa kế của người để lại di sản dùng vào việc thờ cúng có quyền hưởng di sản đó. Nếu những người thừa kế đó đều đã chết, thì di sản thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thừa kế theo pháp luật quy định tại Điều 25 và Điều 26 của Pháp lệnh này”.

 

Ngoài phân tích trên, mặc dù việc tặng cho quyền sử dụng đất không được thể hiện bằng văn bản nhưng người được tặng cho (bố của bạn) đã sử dụng ổn định, quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như bạn nói ông, bà và mọi người trong gia đình đều khỏe mạnh nên biết; việc sử dụng qua nhiều năm, các bên đương sự biết nhưng không có ý kiên gì.

 

Vậy, với những phân tích ban đầu thì quyền sử dụng đất được cấp cho bố bạn là có cơ sở. Nhưng để giải quyết triệt để vụ án trên thì cơ quan có thẩm quyền cần yêu cầu đương sự hoặc tự mình thu thập các tài liệu về nguồn gốc đất, cũng như ý chí chủ quan của các bên đương sự để ra quyết định hợp lý, hợp pháp.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Tư vấn về việc tranh chấp đất đai./.. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến bộ phận luật sư tư vấn trực tuyến - Số điện thoại liên hệ 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng

Phòng tư vấn – Công ty Luật Minh Gia.

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn