Tư vấn về quyền nuôi con và chia tài sản sau khi ly hôn
Nội dung tư vấn: Cảm ơn bạn đã gửi nội dung tư vấn tới Công ty Luật Minh Gia. Với những thắc mắc của bạn, chúng tôi xin đưa ra ý kiến tư vấn như sau:
Thứ nhất, về quyền nuôi con sau ly hôn
Do thông tin mà bạn cung cấp không đầy đủ và việc quyết định ai sẽ là người có quyền trực tiếp nuôi con sau ly hôn còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Nên chúng tôi không thể khẳng định bạn có giành được quyền nuôi con không, mà chỉ có thể đưa ra các căn cứ pháp luật bạn có thể xem xét vào trường hợp của bạn để xác định bạn có thể giành quyền nuôi con hay không.
Theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn:
“Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn
1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”
Như vậy, theo quy định này thì để xác định được quyền nuôi con thì đầu tiên cần căn cứ vào độ tuổi của con, do bạn không cung cấp tuổi của cháu nên bạn có thể căn cứ theo các quy định của pháp luật áp dụng vào trường hợp cụ thể của vợ chồng bạn:
Nếu cháu dưới 36 tháng tuổi thì sẽ được giao cho người mẹ trực tiếp nuôi trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc vợ chồng bạn thỏa thuận để bạn trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Nếu cháu đã trên 3 tuổi và dưới 7 tuổi mà trường hợp vợ chồng bạn không thể thỏa thuận ai có quyền nuôi con thì Tòa án sẽ quyết định giao con cho một bên nuôi dưỡng dựa trên quyền lợi về mọi mặt của con. Cụ thể tòa án sẽ xem xét tổng thể trên các mặt sau đây:
- Thứ nhất, căn cứ vào điều kiện về vật chất: ăn ở, sinh hoạt, điều kiện học tập… các yếu tố này sẽ được xét trên điều kiện về chỗ ở, tài sản, thu nhập của cha mẹ.
- Thứ hai, căn cứ vào các điều kiện tinh thần bao gồm: thời gian chăm sóc, dạy dỗ, giáo dục con, tình cảm dành cho con từ trước đến nay, điều kiện cho con vui chơi, giải trí, nhân cách đạo đức của cha mẹ.
- Thứ ba là về mong muốn của con. Áp dụng đối với trẻ trên 7 tuổi thì Tòa sẽ hỏi nguyện vọng của cháu xem là cháu mong muốn được ở với bố hay mẹ.
Thứ hai, xử lý tài sản chung khi ly hôn
Theo thông tin mà bạn cung cấp thì chiếc xe mà vợ bạn đang đi được mua trong thời kỳ hôn nhân như vậy thì theo quy định tại Điều 34 Luật Hôn nhân và Gia đình về đăng kỳ quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản chung:
“Điều 34. Đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản chung
1. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
2. Trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên một bên vợ hoặc chồng thì giao dịch liên quan đến tài sản này được thực hiện theo quy định tại Điều 26 của Luật này; nếu có tranh chấp về tài sản đó thì được giải quyết theo quy định tại khoản 3 Điều 33 của Luật này.”
Và theo quy định tại Khoản 3 Điều 33 của Luật này : “Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.”
Như vậy, theo các quy định này thì nếu chiếc xe mà vợ bạn đang đi được mua trong thời kỳ hôn nhân mà vợ bạn không có căn cứ để chứng minh chiếc xe đó là tài sản riêng của vợ bạn thì sẽ được coi là tài sản chung.
Và theo quy định tại Khoản 1,2,3 Điều 59 Luật Hôn nhân và Gia đình về nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn:
“Điều 59. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn
1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.
Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.
2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.”
Như vậy, theo các quy định trên thì chiếc xe nếu là tài sản chung của vợ chồng thì sẽ được chia đôi theo giá trị chiếc xe đó. Nếu vợ bạn muốn giữ chiếc xe thì phải thanh toán phần chênh lệch giá trị chiếc xe đó cho bạn.
Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất