LS Hoài My

Tư vấn về quyền nuôi con, chia tài sản khi ly hôn do vợ cờ bạc

Tôi 46 tuổi, tôi lấy vợ cùng quê, cô này không có nghề nghiệp gì, chỉ buôn bán ven đường phố. Năm 201x, sinh con trai đầu, mua đất. Năm 201x làm nhà (làm trên đất nông nghiệp) tất cả việc giao dịch mua đất đều mang tên tôi. Năm 2015 sinh con trai thứ 2.

Tôi đi làm liên tục, vợ ở nhà khi rảnh thì đi bán dạo, khi thì ở nhà trông con. Từ năm 201x đến 201x cô ta đi đánh bài ở C và nợ nần, giam cầm 7 lần tại C do vay tiền của bọn xã hội đen tại sòng bài, 7 lần đó Tôi, gia đình tôi, gia đình vợ tôi đều bỏ tiền ra để chuộc mạng về.

Sau  lần thứ 6 chuộc mạng cô ta về. Tôi và cả 2 bên gia đình khuyên nhủ, cô ấy cũng hứa sẽ không tái phạm nữa. Sau lần thứ 6 chuộc mạng về từ C cô ta viết tờ cam kết vối tôi và có xác nhận của tổ trưởng dân phố là: nếu đi chơi bài nữa thì coi như cô ấy giết cả cha mẹ 2 bên, anh chị 2 bên, giết chồng con, không được quyền nuôi con(vì suốt ngày đi đánh bài), không được chia bất cứ tài sản gì (vì đã tốn rất nhiều tiền chuộc mạng về và hiện còn nợ bên ngoài nữa).

Sau lần thứ 7 chuộc mạng về từ C cô ta mua giấy ly hôn và bán nhà và cô ta ký sẵn vào giấy đó và đưa cho tôi. Ngày 2x/x/201x, cô ta lại dính bên C lần nữa và nghe nói về là xx.000.000 đồng thì mới chuộc được mạng ra. Đến nay cả 2 bên gia đình và tôi không còn khả năng sinh sống nữa huống chi là xx.000.000 đồng (vì tôi làm còn lo cho 2 con nhỏ từ sinh hoạt đến bảo hiểm, học hành). Tôi đã được 2 bên gia đình khuyên nên ly dị để còn lo cho 2 con, chứ vợ như thế thì đời con sẽ hỏng hết. Hiện tôi sống và làm việc tại G, vì vậy việc tiếp cận và tư vấn từ phía tòa địa phương rất khó khăn.

Trả lời. Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đến công ty Luật Minh Gia. Trường hợp này chúng tôi tư vấn cho bạn như sau.

Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định về Thuận tình ly hôn như sau:

“Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn.”

Trong trường hợp cả 2 vợ chồng bạn đều đồng ý ly hôn, không có tranh chấp về tài sản và quyền nuôi con thì có thể làm đơn yêu cầu Tòa án công nhận thuận tình ly hôn gửi lên Tòa án cấp huyện tại nơi bạn đang cư trú, làm việc hoặc tại nơi vợ bạn đang cư trú, làm việc. Còn trong trường hợp vợ bạn không muốn ly hôn thì bạn có thể làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn.

Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định về Ly hôn theo yêu cầu của một bên như sau:

“1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.

3. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.”

Theo đó, khi hòa giải không thành thì Tòa án sẽ căn cứ vào tình trạng hôn nhân của vợ chồng bạn nếu thấy hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Tòa sẽ giải quyết cho ly hôn.

Để Tòa án giải quyết cho ly hôn thì bạn cần cung cấp chứng cứ về việc vợ bạn cờ bạc, bán tài sản, không có thời gian chăm sóc con, nuôi dưỡng con.

Khi ly hôn thì tài sản chung của vợ chồng và quyền nuôi con được giải quyết như sau:

Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình quy định về Tài sản chung của vợ chồng như sau:

“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.”

Điều 34 Luật hôn nhân và gia đình quy định về Đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản chung như sau:

“1. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.

2. Trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên một bên vợ hoặc chồng thì giao dịch liên quan đến tài sản này được thực hiện theo quy định tại Điều 26 của Luật này; nếu có tranh chấp về tài sản đó thì được giải quyết theo quy định tại khoản 3 Điều 33 của Luật này.”

Theo đó, quyền sử dụng đất mà vợ, chồng mua trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng. Theo thông tin bạn cung cấp thì tất cả giao dịch đều do bạn đứng tên. Tuy nhiên, nếu bạn bảo tài sản đó là tài sản riêng của bạn thì bạn phải chứng minh được mảnh đất đó là tài sản riêng của bạn như mảnh đất đó mua từ tiền tiết kiệm của bạn. Còn nếu không chứng minh được thì mảnh đất đó vẫn là tài sản chung của vợ chồng.

Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình quy định về Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn như sau:

“1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.

Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.

2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:

a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;

b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.

3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.

.........................”

Căn cứ vào quy định trên thì theo nguyên tắc tài sản chung của vợ chồng là chia đôi nhưng Tòa án sẽ tính đến các yếu khác quy định tại khoản 2 Điều 59 trên.

Điều 81 quy định về Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn như sau:

“1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”

Theo thông tin bạn cung cấp thì bạn có 2 người con, một bé sinh năm 2010 và một con sinh năm 2013. Như vậy, một bé 6 tuổi và một bé 3 tuổi nên về nguyên tắc thì bé 3 tuổi sẽ giao cho mẹ cháu bé nuôi; còn bé 6 tuổi sẽ do 2 vợ chồng thỏa thuận.

Tuy nhiên, bạn có thể đưa ra các chứng cứ chứng minh vợ bạn suốt ngày cờ bạc, phá tài sản, không có thời gian chăm con thì bạn có thể giành được quyền nuôi cả 2 cháu bé.

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Tư vấn về quyền nuôi con, chia tài sản khi ly hôn do vợ cờ bạc. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ với chúng tôi để được giải đáp.

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

0971.166.169