Luật sư Phùng Gái

Tư vấn về hành vi vi phạm về điều kiện kết hôn và liên quan tới việc chia tài sản riêng?

Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, không phải giai đoạn nào luật cũng quy định điều kiện kết hôn giống nhau. Xã hội thay đổi kéo theo những quan điểm, yêu cầu của con người và luật pháp thay đổi.

Câu hỏi tư vấn: Tôi và ông A kết hôn với nhau có được 1 đứa con trai gần 1 tuôi thì vợ chồng tôi ly thân, tôi về ngoai sống và anh chị tôi đã mua cho tôi một căn nhà bằng tiền của bên ngoại (phần thừa kế tài sản của bên ngoại mà tôi được hưởng) mẹ con tôi sống trong ngôi nhà đó tích góp làm ăn, chúng tôi đã đưa đơn ra tòa ly dị nhưng đến tòa thì chồng tôi không ký đơn ly di.

Chúng tôi sống ly thân như vậy nhiều năm sau cho đến khi con tôi được 6 tuổi thì chồng tôi có vợ mới và sau đó tôi cũng có chồng thứ 2 như vậy giấy kết hôn của tôi và người chồng đầu tiên của tôi có còn giá trị pháp lý hay không? Tôi sống với với người chồng thứ 2 có được 2 đứa con đứa lơn bây giờ đã 14 tuổi và đứa nhỏ 5tuoi, từ khi có đứa con thứ 2 với người chồng thứ 2 thì chúng tôi đã ly thân với nhau. Anh về ở với ba mẹ anh, tôi và các con tôi ở nhà tôi. Cách đây 4 năm khi tôi sanh đứa thứ 2 thì chồng tôi có đi đăng ký kết hôn để làm giấy khai sinh cho 2 con đứa con của anh B(chồng thứ 2) như vậy anh B đăng ký kết hôn như vậy có đúng pháp luật hay không tờ kết hôn đó có giá trị pháp lý hay không? Anh B nghe lời gia đình,chị em súi dục thường quay về nhà riêng của tôi đạp phá đồi tôi phải bán nhà chia tài sản cho anh ta một nữa. Vì anh ta đã đăng ký kết hôn với tôi tài sản của vợ công của chồng.

Tôi là người làm thuê làm mướn không hiểu biết về luật pháp, hôn nhân như thế nào anh chồng thứ 2 của tôi đem giấy kết hôn ra để đòi chia tài sản của tôi như vậy có đúng không? Giờ tôi phải làm sao mong anh chị luật sư tư vấn giúp tôi. Về phía 2 đứa con của chúng tôi thì do tôi nuôi, sống với tôi. Mỗi tuần anh B có phụ cấp cho 2 đứa từ 150.000 – 250.000đ/tuần (2 đứa). với cuộc sống ngày nay một đứa 14 tuổi và một đứa 5 tuổi ăn học thì liệu có đủ không? Nhưng chồng tôi lại bảo bao nhiêu đó là nhiều rồi. Tôi muốn ly dị để thoát khỏi liên hệ với anh thì anh không đồng ý ký đơn ly dị bắt tôi bán nhà chia cho anh B một nữa mới chịu ký đơn ly dị? tôi phải làm sao để thoát khỏi anh chồng B, để mẹ con tôi được yên ổn, không cho anh B đến nhà tôi nữa được không? Mong anh chị luật sư tư vấn giúp tôi. 

Trả lời tư vấn: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn tới công ty Luật Minh Gia, với trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau

- Thứ nhất, về việc chấm dứt quan hệ hôn nhân lần thứ nhất. 

Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình 2014 về vấn đề ly hôn. Cụ thể:

'"Điều 57. Thời điểm chấm dứt hôn nhân và trách nhiệm gửi bản án, quyết định ly hôn

1. Quan hệ hôn nhân chấm dứt kể từ ngày bản án, quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

2. Tòa án đã giải quyết ly hôn phải gửi bản án, quyết định ly hôn đã có hiệu lực pháp luật cho cơ quan đã thực hiện việc đăng ký kết hôn để ghi vào sổ hộ tịch; hai bên ly hôn; cá nhân, cơ quan, tổ chức khác theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và các luật khác có liên quan."

Như vậy, cần xác định rõ thời điểm chị đã gửi đơn yêu cầu ly hôn ra tòa và đã  có bản án, quyết định ly hôn từ Tòa án hay chưa. Trường hợp đã có quyết định ly hôn từ Tòa thì đương nhiên hai người không còn tồn tại quan hệ vợ chồng nữa. Trường hợp, đã gửi đơn nhưng chưa có bản án, quyết định của Tòa nên về mặt pháp luật giấy đăng ký kết hôn vẫn có giá trị và hai người vẫn được pháp luật công nhận là vợ chồng hợp pháp.

-Thứ hai, quan hệ hôn nhân lần 2.

"Điều 8. Điều kiện kết hôn

1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:

a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;

b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;

c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;

d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này."

"Điều 9. Đăng ký kết hôn

1. Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch.

Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý.

2. Vợ chồng đã ly hôn muốn xác lập lại quan hệ vợ chồng thì phải đăng ký kết hôn."

Thông tin bạn cung cấp thì chồng thứ hai của bạn tự mình đi đăng ký kết hôn mà không có chị cùng tham gia, cũng như chưa có sự đồng ý của chị thì đương nhiên đã vi phạm về điều kiện kết hôn(điểm b, khoản 1 Điều 8). Đồng thời, như đã trình bày trên trường hợp quan hệ hôn nhân giữa chị và chồng cũ vẫn còn tồn tại, pháp luật thừa nhận thì khi người chồng hiện tại (thứ 2) lại tự mình đi đăng ký kết hôn thì cơ quan đăng ký kết hôn cũng sẽ không giải quyết vì vi phạm điều kiện kết hôn tại điểm d khoản 1 Điều 8 Luật này. Trường hợp, vẫn tiến hành đăng ký được thì bạn có quyền yêu cầu Tòa án hủy giấy chứng nhận đăng ký kết hôn đó.

Theo đó, giấy chứng nhận đăng ký kết hôn của hai người pháp luật sẽ không thừa nhận nên đương nhiên không có giá trị pháp lý gì.

-Thứ ba, liên quan tới tài sản trước kỳ hôn nhân

Điều 16. Giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn

1. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

2. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.

Điều 43. Tài sản riêng của vợ, chồng

1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.

2. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này.

Như vậy, với thông tin của bạn thì ngôi nhà là nguồn tài sản được thừa kế riêng của bạn cũng như có trước thời điểm hai người về sống với nhau.( bạn chứng minh được). Nên sẽ được xác định là tài sản riêng và người chồng thứ hai không có quyền yêu cầu chia phần tài sản này.

-Thứ tư, quyền nuôi và cấp dưỡng con.

Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn

1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con."

"Điều 82. Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

1. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó."

Theo đó, việc bạn được quyền nuôi hai con và người bố thì có nghĩa vụ cấp cấp dưỡng cho hai đứa con. Nhưng như bạn cung cấp mỗi tháng chỉ cấp dưỡng từ 150-250 nghìn đồng có đủ hay không còn phụ thuộc khả năng kinh tế của họ đến đâu mới xác định được mức trợ cấp như vậy có thỏa đáng hay không. Ngoài ra, bạn cũng không được phép cấm họ đến nhà bạn để chăm sóc các con.

Trên đây là nội dung tư vấn về: Hành vi vi phạm về điều kiện kết hôn và liên quan tới việc chia tài sản riêng?. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ với chúng tôi qua email hoặc gọi điện để được tư vấn trực tuyến.

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo