Tư vấn phân chia tài sản sau ly hôn và quyền nuôi con
Trả lời tư vấn: Chúng tôi rất lấy làm tiếc về chuyện hôn nhân của chị. Ly hôn là điều không ai mong muốn cả. Nhưng nhiều khi nó lại là điều không thể tránh khỏi và chúng ta chỉ đang làm những điều tốt nhất có thể.
Trả lời: Về câu hỏi của chị, chúng tôi xin được tư vấn cụ thể như sau:
Chia tài sản sau ly hôn
Theo các nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn quy định tại Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì:
"1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.
Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết."
Như vậy , việc chia tài sản của vợ chồng chị trước hết sẽ do vợ chồng chị tự thỏa thuận (sự thỏa thuận này phải phù hợp với các nguyên tắc của luật hôn nhân và gia đình). Nếu vợ chồng chị không thỏa thuận được với nhau thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Cũng giống như các vụ kiện dân sự khác, nếu Tòa án tiến hành hòa giải thành thì việc giải quyết các vụ tranh chấp có nhiều thuận lợi hơn, vừa đảm bảo đúng pháp luật, đoàn kết trong quần chúng, vừa giúp cho việc thi hành án được thuận lợi, nhanh chóng. Trường hợp vợ chồng chị không thỏa thuận được với nhau, tòa án sẽ quyết định dựa trên các quy định tại điều 43, điều 33, điều 44, cụ thể:
- Tài sản riêng của bên nào vẫn thuộc quyền sở hữu của bên đó.
- Đối với những đồ trang sức mà vợ, chồng được cha mẹ vợ/chồng tặng cho riêng trong ngày cưới là tài sản riêng; nhưng nếu những thứ đó được cho chung cả 2 người với tính chất là tạo dựng cho vợ chồng một số vốn thì coi là tài sản chung.
- Nếu vợ hoặc chồng đã vay mượn tiền bạc của người khác để chi dùng cho mục đích, nhu cầu riêng thì người vợ hoặc chồng phải có nghĩa vụ thanh toán bằng tài sản riêng của mình.
- Trường hợp con đã thành niên có đóng góp đáng kể vào việc xây dựng và phát triển tài sản của cha mẹ thì được trích chia phần đóng góp của họ trong phần tài sản của cha mẹ khi ly hôn, theo yêu cầu của người con đó.
Đối với tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn mà vợ chồng không thỏa thuận được với nhau, có yêu cầu tòa án giải quyết thì tòa án quyết định theo nguyên tắc quy định tại khoản 2, khoản 3 điều 59 Luật hôn nhân và gia đình 2014:
"2. Việc chia tài sản chung được giải quyết theo các nguyên tắc sau đây:
a) Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
b) Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch.
3. Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng do vợ, chồng thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết"
Như vậy, số tiền mà anh chị cùng góp để xây nhà cũng như căn nhà sẽ được phân chia theo nguyên tắc chia đôi, và Tòa sẽ xem xét các căn cứ khác để phân chia sao cho hợp lý như: tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản…
Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn như sau:
1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
Từ những quy định trên, có thể rút ra một số điều:
- Con bạn đã 4 tuổi, vì vậy sẽ không còn được mặc định giao cho mẹ trực tiếp nuôi. Vậy nên cơ hội được nuôi con của chị cũng được tăng thêm.
- Khi xem xét ai sẽ là người có quyền nuôi con, Tòa án sẽ căn cứ vào nhiều yếu tố khác nhau với mục đích tìm được người có thể đáp ứng tối đa yêu cầu cho sự phát triển của đứa trẻ. Nhìn chung Tòa án sẽ dựa trên 3 yêu tố sau:
+ Điều kiện về vật chất bao gồm: Ăn, ở, sinh hoạt, điều kiện học tập…các yếu tố đó dựa trên thu nhập, tài sản, chỗ ở của cha mẹ;
+ Các yếu tố về tinh thần bao gồm: Thời gian chăm sóc, dạy dỗ, giáo dục con, tình cảm đã dành cho con từ trước đến nay, điều kiện cho con vui chơi giải trí, nhân cách đạo đức, trình độ học vấn … của cha mẹ.
+ Nguyện vọng của con: Con mong muốn được ở với ai (chỉ áp dụng với con từ đủ 7 tuổi trở lên).
Nếu chị thực sự yêu thương con mình và có đủ khả năng chứng minh trước tòa rằng mình có thể đem lại cho con mình cuộc sống tốt đẹp hơn thì việc chị giành được quyền nuôi con là hoàn toàn có thể.
- Bên cạnh đó, Điều 82 có quy định về nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Theo đó:
1. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.
2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Nếu chị không được trực tiếp nuôi con thì vẫn có quyền được cấp dưỡng và thăm nom cháu bé. Không ai có thể cản trở quyền này của chị. Do vậy chúng tôi khuyên chị nên cân nhắc. Nếu chị thực sự có khả năng để nuôi con một cách đầy đủ nhất, điều đó là tốt. Nhưng nếu chị thấy chồng chị là người có thể chăm lo tốt hơn cho con mình thì chị có thể cân nhắc vấn đề này. Vì qua thông tin chị đưa ra, có thể việc ly hôn này xuất phát từ chuyện riêng của vợ chồng chị và bố chồng và hai vợ chồng chị đều yêu thương con mình. Vậy nên chúng tôi mong chị và chồng chị có thể cân nhắc kĩ lưỡng vấn đề này vì tương lai con anh chị.
Hi vọng phần tư vấn của chúng tôi có thể giúp ích trong vấn đề của chị. Công ty chúng tôi chỉ tư vấn về dịch vụ pháp lý và không đi sâu vào vấn đề tình cảm gia đình. Nếu chị muốn được tư vấn cụ thể hơn về vấn đề này, chị có thể tìm đến những trung tâm dịch vụ tư vấn tâm lý về hôn nhân gia đình để được tư vấn một cách chuyên nghiệp và cụ thể nhất. Chúc chị sớm vượt qua sóng gió này.
Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất