Lại Thị Nhật Lệ

Tranh chấp di sản thừa kế và chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất.

Cha tôi là con trai út trong gia đình có 9 người con, người thứ 2 và thứ 4 đã mất lúc nhỏ. Bà nội tôi mất năm 2008 ba tôi dọn về nhà ông nội ờ để chăm sóc ông nội, sau đó ông nội tôi cũng mất mà không để lại di chúc. Lúc còn sống ông bà nội tôi đã chia đều cho cô bác tôi người một phần đất để ở làm nông kể cả cha tôi vì cha tôi ra ở riêng và phần đất ông nội tôi đang ở thì được hiểu là đất hương hỏa .

 

Hiện giờ cha tôi đang giữ sổ đỏ của ông nội muốn sang tên cho cha tôi nhưng các cô bác không đồng ý. Xin hỏi luật sư trong trường hợp này thì phần đất đó sẽ được chia cho ai. Nếu cha tôi muốn được thừa kế phần đất đó thì phải làm sao? Trong sổ đỏ đang tranh chấp của ông nội tôi có 1 phần đất ông nội cho cha tôi mà chưa sang tên, cha tôi đã bán phần đất đó cho người cô thứ 4 khoảng 15 năm trước lúc đó là 25 triêu, nhưng do chưa sang tên nên người thứ 4 đó giữ lại 3 triệu chưa chồng tiền cho cha tôi, nay người đó nốp đơn kiện ra tòa thì sự việc này sẽ giải quyết như thế nào?

 

Trả lời: Cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi tư vấn đến công ty Luật Minh Gia. Chúng tôi xin tư vấn cho bạn như sau:

 

1.    Phân chia di sản thừa kế do ông mất để lại.

 

Ông bạn mất mà không để lại di chúc do đó theo điều 650 bộ luật dân sự năm 2015 thì di sản thừa kế mà ông để lại sẽ được chia theo pháp luật.

 

Căn cứ theo Điều 651 bộ luật dân sự năm 2015 quy định về người thừa kế theo pháp luật:
 

“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”

 

Những người được hưởng di sản thừa kế do ông bạn để lại bao gồm những người ở hàng thừa kế thứ nhất bao gồm 7 người con do bà (vợ của ông) đã mất trước ông và hai người con của ông đã mất khi còn nhỏ. Do đó, anh em của bố bạn (con của ông) có quyền yêu cầu phân chia di sản thừa kế. Các bên có thể thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án phân chia. 
 

Trường hợp ông bạn lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng…(Điều 645 bộ luật dân sự 2015). Tuy nhiên, ông bạn mất không để lại di chúc và không chỉ định bố bạn là người quản lý di sản thờ cúng (phần đất hương hỏa) do đó phần đất trên những người được hưởng di sản thừa kế vẫn có quyền yêu cầu chia theo đúng quy định của pháp luật.

 

Căn cứ theo Điều 623 bộ luật dân sự năm 2015 quy định về thời hiệu thừa kế.

 

“1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó…”

 

Như vậy, trong thời hạn 30 năm kể từ ngày ông bạn mất thì bố bạn và các cô có quyền khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về bố bạn nếu bố bạn đang quản lý di sản đó.

 

2.    Tặng cho quyền sử dụng đất

 

Căn cứ theo Điều 459 bộ luật dân sự năm 2015 quy định về tặng cho bất động sản:

 

“1. Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của luật.

2. Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản.”

 

Khi ông bạn còn sống có tặng cho quyền sử dụng đất cho bố bạn và các cô mỗi người một đất. Nếu việc tặng cho chỉ được thực hiện bằng lời nói không được lập thành văn bản, không có công chứng hoặc chứng thực tại UBND xã phường, thị trấn và hiện nay vẫn chưa được sang tên thì giao dịch tặng cho bị vô hiệu. Diện tích đất tặng cho trên sẽ được xác định là di sản thừa kế do ông bạn để lại. 

 

Theo Điều 188 luật đất đai năm 2013 quy định về điều kiện thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất:

 

“1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:

a) Có Giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 186 và trường hợp nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật này;

b) Đất không có tranh chấp;

c) Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;

d) Trong thời hạn sử dụng đất.
…”

 

Bố bạn được ông tặng cho bằng lời nói, chưa làm thủ tục sang tên quyền sử dụng đất do đó bố bạn chưa có quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho cô bạn. Mặt khác, hợp đồng mua bán giữa bố bạn và cô bạn không được lập thành văn bản và không có xác nhận của UBND xã, phường thị trấn do đó giao dịch dân sự này bị vô hiệu: các bên sẽ trả lại cho nhau những gì đã nhận. 

 

Theo Điều 132. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu:

 

“Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu quy định tại các Điều 125, 126, 127, 128 và 129 của Bộ luật này là 02 năm, kể từ ngày:

đ) Giao dịch dân sự được xác lập trong trường hợp giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức”

 

Trong trường hợp của bạn, bố bạn và cô bạn không tuân thủ về hình thức của hợp đồng mua bán do đó giao dịch dân sự này bị vô hiệu. Tuy nhiên, đến nay đã quá hai năm kể từ ngày hai bên thực hiện giao dịch mua bán, chuyển nhượng. Do đó, các bên không còn quyền yêu cầu Tòa án giải quyết, các có thể thỏa thuận lại về việc giao kết hoặc hủy bỏ hợp đồng. 

 

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về vấn đề bạn quan tâm. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến Tổng đài luật sư tư vấn luật trực tuyến - 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời

 

Trân trọng!

Cv: Vũ Nga - Luật Minh Gia. 

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo