LS Vy Huyền

Thừa kế đất đai khi một bên vợ hoặc chồng chết

Luật sư tư vấn về trường hợp tranh chấp đất đai khi một bên vợ hoặc chồng chết mà không để lại di chúc.

 

Bà nội cháu bị bệnh liệt giường 7 năm đến năm 1993 thì bà cháu mất. Ông nội cháu bươn trải chăm sóc gia đình gồm 6 người con. Trong thời điểm này, tất cả đất đai là của Hợp Tác Xã. Đến năm 1996 nhà nước mới cấp sổ đỏ và ông nội cháu đứng tên thuộc quyền sở hữu đất đai và nhà cửa của gia đình. Đến năm 2007, ông nội cháu mất và có để lại di chúc cho ba cháu được hưởng toàn bộ tài sản. Sau đó 1 năm 5 người con còn lại (tức là anh em của ba cháu) kiện ba cháu ra toà huyện với mục đích phải chia di sản của bà nội nhưng không thành vì bên kiện không có đầy đủ chứng từ nên toà huyện không giải quyết. Đến năm 2016 họ tiếp tục khởi kiện với lí do: "Bà nội mất không để lại di chúc, phần di sản của bà nội để lại vẫn nằm trong khối tài sản chung với ông nội cháu, do ông nội và các đồng thừa kế quản lí sử dụng. Năm 2000 ông nội lập di chúc (có chứng thực) để lại toàn bộ tài sản chung của vợ chồng (nhà và đất) cho ba cháu, đến năm 2007 thì ông nội cháu mất". Họ cho rằng việc ông nội lập di chúc để lại toàn bộ tài sản cho ba cháu là không hợp pháp. Yêu cầu ba cháu chia tài sản thừa kế của bà nội theo pháp luật cho 6 người con của bà mỗi người 1 phần bằng nhau. Và xem xét huỷ GCNQSDĐ đã cấp cho ba cháu. Cháu có đọc Điều 66, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định: Khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản. Vậy cho cháu hỏi việc ông nội cháu để lại toàn bộ tài sản cho ba cháu là đúng pháp luật hay không? Và việc họ kiện ba cháu như vậy là đúng hay sai? Mong nhận được hồi âm sớm nhất có thể. Cháu xin chân thành cảm ơn!

 

Cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi về công ty luật Minh Gia. Với yêu cầu trợ giúp của bạn, chúng tôi xin tư vấn như sau:

 

Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 có quy định:

 

Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng

1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

 

Do đó, quyền sử dụng đất ở mảnh đất nói trên vẫn thuộc quyền sở hữu của cả ông và bà, kể cả sau khi bà mất.

 

Luật cũng quy định về vấn đề chia tài sản khi một bên vợ hoặc chồng chết như sau:

 

Điều 66. Giải quyết tài sản của vợ chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết

 

2. Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế.

 

Do đó, ông bạn chỉ có thể để lại cho bố bạn một nửa mảnh đất thuộc quyền sở hữu của ông, một nửa còn lại sẽ được chia thừa kế theo pháp luật do bà bạn mất không để lại di chúc.

 

Vì vậy, việc các người con khác của ông bà khởi kiện về chia thừa kế như vậy là đúng theo quy định của pháp luật.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Thừa kế đất đai khi một bên vợ hoặc chồng chết. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến bộ phận luật sư tư vấn trực tuyến - Số điện thoại liên hệ 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng

,

CV. Đoàn Quỳnh Thơ – công ty luật Minh Gia

 

 

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Đặt câu hỏi tư vấn
Chat zalo