Tài sản chung của vợ chồng và xử lý hành vi chung sống như vợ chồng
Tài sản thì năm 1999 cha anh ấy có làm di chúc cho anh ấy (thời điểm này chưa quen tôi) coi như tài sản riêng cua anh ấy. Tài sản này là 1 miếng đất ruộng và 1 căn nhà. 2010 khi tôi về làm dâu, tôi đã cải tạo lại đất này thành đất có giá trị lon hơn so với trước khi tôi ve làm dâu. có xay dung nhà cho thuê và thành biệt thự (chồng tôi bỏ tiền, tôi bỏ công, thời điểm này chong tôi ở nước ngoài, nên chỉ 1 mình tôi xây dựng) Khoãng 2013 cha chồng cho tôi đứng tên đất (hiện giờ tôi là người đóng thuế hàng năm và là chủ hộ khẩu). Chồng tôi là Việt kiều nên chỉ có tên trong di chúc thôi (ngoài ra k có tên trong bất cứ giấy tờ nào hết). Năm 2015 cha chồng tôi mất. Xin hỏi luật sư:
1. Tôi có được chia tài sản này Không, công sức mà tôi đã cải tạo lại miếng đất này.
2/ tôi có quyền đòi bồi thường vì sau gan 8 năm chung sống làm tôi chạm trể vì chua có con cái (bây gio tôi 40 tuổi) Bây giờ chồng tôi muốn ban miếng đất nay va muon ly hôn voi toi, sau gần 8 năm chung sống. Tôi k có tiền (bởi vì anh ấy là người giữ tiền), không có xe, không có con, không có nhà (vì anh ấy nói nhà này, đất này la di chúc của ba anh ấy, toi k có quyền chia). Nói tôi ra đi 2 bàn tay trắng. Tôi có đoạn ghi âm anh ấy công nhận có nhân tình và k muon có con.
Mong luật sư cho tôi biết rõ hơn về pháp luật, và quyền lợi của tôi Chân thành cám ơn
Trả lời tư vấn: Luật Minh Gia cảm ơn câu hỏi và đề nghị tư vấn của bạn. Trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:
Thứ nhất, bạn có được chia tài sản này không?
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 643 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế”.
Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người để lại di sản chết. Như vậy, di chúc mà bố chồng tặng cho đất cho chồng của bạn vẫn chưa có hiệu lực, quyền định đoạt mảnh đất này thuộc về ông. Do đó, ông có quyền cho phép bạn là đồng chủ sở hữu mảnh đất bằng việc cho bạn đứng tên trong mảnh đất. Do đó, bạn có quyền chia mảnh đất này.
Thứ hai, hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng
Theo quy định tại Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định:
“Điều 5. Bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình
1. Quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập, thực hiện theo quy định của Luật này được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
2. Cấm các hành vi sau đây:
a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;
b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;
c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;
Do hai anh chị chưa ly hôn mà anh lại chung sống như vợ chồng với người khác nên chồng chị đã vi phạm chế độ hôn nhân một vợ , một chồng. Theo đó, bạn có quyền yêu cầu UBND cấp xã xử phạt vi phạm hành chính, căn cứ Khoản 1 Điều 48 Nghị định 110/2013/NĐ-CP:
“Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
a) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;
b) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;
c) Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;
d) Kết hôn giữa những người có họ trong phạm vi ba đời;
đ) Kết hôn giữa cha mẹ nuôi với con nuôi;
e) Kết hôn giữa người đã từng là cha mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng”.
Bên cạnh đó, chồng bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
“Điều 147. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng.
1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.
2. Phạm tội trong trường hợp đã có quyết định của Toà án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.”
Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn hỏi và quan tâm. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ cần luật sư giải đáp, bạn vui lòng gọi đến bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến của chúng tôi để được hỗ trợ kịp thời.
Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất