Quy định của pháp luật về chia di sản thừa kế
Bà ngoại tôi mất đã 5 năm, có để lại cho mỗi người con 1 mảnh đất . Nhưng di chúc của bà để lại thì ko có con dấu của phường mà chỉ có hàng xóm, tổ trưởng dân phố làm chứng và ký trên giấy, thì di chúc đó có được công nhận hay không ? Và với tư cách hiện tại của dì tôi thì mảnh đất đó khi có tranh chấp thì có được tính là tài sản trước hôn nhân không? Mong các luật sư tư vấn giúp tôi . Tôi xin cảm ơn!
Trả lời:Cảm ơn chị đã tin tưởng và gửi yêu cầu tới công ty Luật Minh Gia! Sau đây, chúng tôi xin tư vấn yêu cầu của chị như sau:
Thứ nhất, về yêu cầu nếu như dì chị đột ngột qua đời mà không để lại di chúc thì ngôi nhà đó sẽ được giải quyết như thế nào?
Theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 650 BLDS 2015 về những trường hợp thừa kế theo pháp luật:
“1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:
a) Không có di chúc;
b) Di chúc không hợp pháp;
c) Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;
d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
...”
Vậy, nếu không có di chúc thì di sản thừa kế là ngôi nhà đó sẽ chia theo pháp luật. Khi đó, nếu có yêu cầu, cơ quan Tòa án sẽ xác định chính xác những người thuộc các hàng thừa kế để chia di sản thừa kế và theo nguyên tắc, mỗi người trong một hàng thừa kế sẽ được hưởng một phần bằng nhau.
Thứ hai, nếu xảy ra tranh chấp thì ngôi nhà có bị chia ra không hay là người con gái được quyền thừa kế?
Nếu có yêu cầu Tòa án giải quyết chia di sản thừa kế, thì ngôi nhà sẽ bị chia ra. Theo như bạn trình bày, dì bạn có người con gái 22 tuổi; hơn nữa dì bạn mới kết hôn lần hai. Trong trường hợp này, ngoài người con gái 22 tuổi còn người chồng mới cưới của dì bạn cũng được hưởng; nếu có con với người chồng này thì người con đó cũng được hưởng. Và mỗi người được hưởng một phần bằng nhau theo giá trị ngôi nhà.
Thứ ba, xét về giá trị pháp lí của bản di chúc mà bà của chị lập trước khi mất.
Vì chị chưa cung cấp đầy đủ nhưng thông tin cần thiết nên chúng tôi sẽ đánh giá giá trị pháp lí của bản di chúc như sau:
Theo quy định tại điều 630 BLDS 2015 về di chúc hợp pháp:
“1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.
2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.
5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.”
Trong trường hợp di chúc của bà chị, nếu bà chị đáp ứng yêu cầu tại khoản 1 nêu trên thì di chúc hợp pháp mà không cần chứng thực của ủy ban nhân dân xã.
Nội dung của di chúc phải đảm bảo đầy đủ những nội dung theo quy định tại điều 631 BLDS 2015:
“Điều 631. Nội dung của di chúc
1. Di chúc gồm các nội dung chủ yếu sau:
a) Ngày, tháng, năm lập di chúc;
b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;
c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;
d) Di sản để lại và nơi có di sản.
2. Ngoài các nội dung quy định tại khoản 1 Điều này, di chúc có thể có các nội dung khác.
3. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.
Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc người làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa.”
Thứ tư, tư cách hiện tại của dì tôi thì mảnh đất đó khi có tranh chấp thì có được tính là tài sản trước hôn nhân không?
Theo quy định tại điều 43 Luật hôn nhân và gia định năm 2014 về tài sản riêng của vợ, chồng:
“Điều 43. Tài sản riêng của vợ, chồng
Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng”.
Như chị trình bày, quyền sử dụng đất mà dì chị đứng tên là tài sản có trước thời kỳ hôn nhân. Như vậy, theo quy định tại khoản 1 điều 43 nêu trên thì ngôi nhà này là tài sản riêng của dì chị.
Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất