Nguyễn Thu Trang

Phân chia đất đai thừa kế không có di chúc thế nào?

Vấn đề chia thừa kế thường xuyên xuất hiện trong đời sống, là việc tất yếu xảy ra khi một người mất để lại di sản. Tuy nhiên, có rất nhiều trường hợp người mất không để lại di chúc, dẫn đến việc tranh chấp giữa những người thừa kế với nhau. Khi xảy ra tranh chấp rất nhiều người không biết xử lý thế nào để đảm bảo quyền lợi của mình.

Khi có tranh chấp về vấn đề thừa kế không có di chúc, giữa những người thừa kế với nhau thường không thể thỏa thuận được về vấn đề phân chia di sản. Vậy pháp luật quy định cách phân chia như thế nào để đảm bảo quyền lợi của tất cả những người thừa kế? Nếu bạn chưa tìm được những căn cứ pháp lý hoặc chưa hiểu rõ, bạn hãy liên hệ tổng đài của Luật Minh Gia 1900.6169  để chúng tôi cung cấp những căn cứ và hướng dẫn quy định của pháp luật cho bạn.

Bạn có thể tham khảo tình huống chúng tôi tư vấn sau đây để có thêm kiến thức về thừa kế trong trường hợp không có di chúc.

Câu hỏi tư vấn: Kính chào Luật sư Minh Gia! Gia đình ông nội tôi có năm người con, ông nội mất năm 1989, bà nội mất năm 1992, có để lại phần tài sản là hai căn nhà không có di chúc do ai thừa kế. Cô Hai đã lấy chồng và ở riêng, bác Ba cũng đã xây nhà riêng, bác Tư đi Campuchia làm ăn, hai căn nhà để trống không ai trông coi. Và cũng không ai xin xác nhận quyền thừa kế cũng như đồng thừa kế. Đến năm 1993 ba tôi là út về sửa chữa lại một căn để ở và lo nhang khói, một căn do cô thứ năm làm nơi ở và các cô bác không ai phản đối. Đến năm 2000 địa phương yêu cầu làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ba tôi và cô thứ năm làm giấy chứng nhận, các cô bác không ai phản đối. Đến năm 2005 cô Năm mất đi để lại căn nhà cho ba nguời con. Năm 2006 bác Tư ở Campuchia về và thỏa thuận với các con của cô năm là xin ở nhờ. Đến cuối năm 2019 thì bác Tư đòi chia phần đất của cô Năm làm đôi và không được các con của cô năm chấp nhận, đến đầu năm 2020 thì bác Tư và cô Hai cùng đưa đơn lên UBND yêu cầu phân chia tài sản là hai ngôi nhà bao gồm của ba tôi và cô Năm (đã mất). Xin hỏi trường hợp này có được thưa kiện hay không và ba tôi nên làm gì để bảo vệ quyền lợi của mình vì trước đó không ai xin thừa kế cũng như không có biên bản chứng nhận đồng thừa kế.

Trả lời tư vấn: Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi về cho Luật Minh Gia. Với nội dung của bạn, chúng tôi tư vấn như sau:

Về thời hiệu thừa kế, Điều 623 Bộ luật dân sự 2015 quy định:

“1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:

a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;

b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này…”

Ngoài ra, căn cứ tại công văn số: 01/GĐ-TANDTC có quy định như sau:

“Tòa án áp dụng khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 về thời hiệu thừa kế để thụ lý, giải quyết vụ án dân sự "Tranh chấp về thừa kế tài sản”. Theo đó, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản kể từ thời điểm mở thừa kế.

Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 10-9-1990 thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là bất động sản được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế, cụ thể là: thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày 10-9-1990.”.

Như vậy, thời hiệu để yêu cầu chia di sản thừa kế là 30 năm đối với bất động sản kể từ thời điểm mở thừa kế. Với trường hợp của bạn, ông nội bạn mất năm 1989 sẽ tính thời điểm mở thừa kế từ năm 1990, bà nội bạn mất năm 1992, căn cứ theo các quy định trên thì hiện tại thời hiệu yêu cầu phân chia di sản thừa kế đối với tài sản của ông bà nội bạn vẫn còn.

Điều 651 Bộ luật dân sự 2015 quy định về người thừa kế theo pháp luật như sau:

“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

...

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

...”

Theo thông tin bạn đưa ra, ông bà nội bạn mất không để lại di chúc, do đó phần tài sản của ông sẽ được chia đều cho 5 người con thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do bố bạn và cô năm đã đứng tên, cần xem xét việc UBND xã cấp cho hộ gia đình hay cho cá nhân?

Trường hợp 1: Đất được cấp cho Hộ gia đình

Căn cứ quy định tại điều 212 Bộ luật Dân sự 2015 nếu quyền sử dụng đất này là của hộ gia đình thì xác định đây là tài sản chung và việc định đoạt khối tài sản chung được quy định như sau:

"1. Tài sản của các thành viên gia đình cùng sống chung gồm tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên và những tài sản khác được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan.

2. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của các thành viên gia đình được thực hiện theo phương thức thỏa thuận. Trường hợp định đoạt tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký, tài sản là nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình phải có sự thỏa thuận của tất cả các thành viên gia đình là người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp luật có quy định khác.

Trường hợp không có thỏa thuận thì áp dụng quy định về sở hữu chung theo phần được quy định tại Bộ luật này và luật khác có liên quan, trừ trường hợp quy định tại Điều 213 của Bộ luật này."

 Khoản 29 điều 3 Luật Đất đai 2013 quy định: 

“Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất”.

Trong trường hợp này, những cá nhân trong hộ gia đình tại thời điểm được cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất đều có phần sở hữu đối với mảnh đất, do đó nếu những người con có tên trong Sổ hộ khẩu tại thời điểm cấp đất có quyền yêu cầu chia phần tài sản trong sở hữu chung của hộ gia đình.

Trường hợp 2: Đất được cấp cho ông bà

Trường hợp này, xác định toàn bộ đất là di sản thừa kế. Do đó, khi đăng ký đất đai là di sản thừa kế không có di chúc để lại, phải có văn bản thỏa thuận giữa các thành viên trong gia đình về việc từ chối nhận di sản. Việc không có văn bản thỏa thuận giữa những người thừa kế về từ chối nhận di sản dẫn đến cô Hai và bác Tư có quyền khởi kiện để yêu cầu chia thừa kế đối với di sản do ông bà nội bạn để lại.

Khi đó, để bảo vệ tối đa quyền lợi của mình, trong trường hợp chia di sản thừa kế, ngoài phần di sản của bố bạn được hưởng, bố bạn có thể yêu cầu đền bù với phần công sức, tài sản đã cải tạo trên căn nhà cũ của bố mẹ nếu việc phân chia khiến gia đình bạn không được ở trong căn nhà đó nữa. Nếu gia đình không thể thỏa thuận được, gia đình có thể yêu cầu UBND xã tiến hành hòa giải. Trường hợp hòa giải không thành có thể khởi kiện ra Tòa án nhân dân cấp huyện theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

 

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Đặt câu hỏi tư vấn
Chat zalo