LS Hoài My

Phải làm gì khi bị người khác uy hiếp tinh thần nhằm cưỡng đoạt tài sản?

Luật sư tư vấn về vấn đề: Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác khi không có yêu cầu khởi tố của bị hại thì có bị truy cứu trách nhiệm hình sự? Người nhà bị hại yêu cầu bồi thường và có hành vi uy hiếp tinh thần nhằm cưỡng đoạt tài sản thì phải làm như nào?

 

Nội dung tư vấn:

 

Tôi có một người bạn thân lấy chồng được gần 10 năm. Khoảng 5 năm trước chồng cô ấy có cho một người bạn vay khoảng 500 triệu. Sau đó nhà kia không trả chồng cô ấy đến đòi và bị nhà kia nợ xúc phạm trong khi nóng giận chồng cô ấy có lỡ tay đánh một người phụ nữ trong nhà kia bị gãy cánh tay. Nhà kia đòi kiện và đưa chồng cô ấy vào tù cô ấy đã đến nhà quỳ xuống van xin và đưa 200 triệu để xin nhà kia rút đơn kiện có giấy tờ đưa tiền nhà kia nhận tiền và đồng ý rút đơn đàng hoàng. Sau đó nhà kia nợ 500 triệu cũng không trả nợ nữa. Tiếp đó trong suốt gần 6 năm trời người phụ nữ kia cùng người nhà hàng tháng đến đòi tiền dưới hình thức vay và không bao giờ trả, có tin nhắn ghi lại đàng hoàng số tiền tổng cộng cả nợ cả tiền vay không trả và tiền 200 triệu ban đầu lên tới hơn một tỉ đồng. Hàng tháng họ đến đe dọa và bắt bạn tôi Đinh Thị Nguyệt đưa tiền để không kiện vì sợ chồng bị kiện và phải vào tù suốt 6 năm trời. Bạn tôi sống trong khủng hoảng và phải đưa tiền cho nhà kia mỗi lần hàng chục triệu ít cũng vài triệu. Bây giờ tôi mới được bạn tôi kể chuyện vì cô ấy đã không còn tiền để đưa và không biết phải làm sao. Vậy tôi xin luật sư cho biết cách giải quyết như thế nào giúp bạn tôi. Cầu xin sự giúp đỡ của các bạn.

 

Trả lời: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đến công ty Luật Minh Gia, với câu hỏi của bạn, chúng tôi xin tư vấn như sau:

 

 + Điều 134 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 có quy định tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau:

 

"1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: 



a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người; 



b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm; 



c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; 



d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình; 



đ) Có tổ chức; 



e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; 



g) Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; 



h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê; 



i) Có tính chất côn đồ; 



k) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân. 



2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm: 



a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; 



b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%; 



c) Phạm tội 02 lần trở lên; 



d) Tái phạm nguy hiểm; 


đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này. 



3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: 

... "
 

Chồng bạn thân của bạn đã có hành vi dùng sức mạnh đánh gãy tay người khác, đã làm cho người này bị thương, bị tổn hại đến sức khỏe.

 

Hành vi của anh này được thực hiện có thể trong trạng thái tức giận, do bị người khác xúc phạm. Tuy nhiên, với hành vi của anh này rõ ràng được thực hiện do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là nhất định hoặc có thể gây ra thương tích hoặc gây tổn hại cho người khác, mong muốn hoặc có ý thực hiện để mặc cho hậu quả đó xảy ra.

 

Theo quy định tại khoản 1 Điều 134 BLHS 2015, thì người bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khỏe mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% trở lên hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp tại khoản 1 Điều này thì người phạm tội mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Ví dụ, tại thời điểm anh này thực hiện hành vi, anh đã dùng các loại vật dụng, hung khí, vũ khí nguy hiểm như: dao, súng, kiếm… mà gây ra thương tích cho người bị hại mặc dù tỷ lệ thương tích dưới 11% vẫn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Căn cứ để xác định tỉ lệ thương tật là kết luận của Hội đồng giám định y khoa.

 

Ngược lại, nếu nạn nhận có tỷ lệ thương tích không đáng kể, tức là nếu tỷ lệ thương tích dưới 11% và không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 134 BLHS 2015 thì người gây ra hành vi cố ý gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe cho người khác sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Ví dụ, khi thực hiện hành vi phạm tội, anh này không sử dụng các loại vũ khí, hung khí nguy hiểm hoặc các chất độc, có tính côn đồ thì khi tỷ lệ thương tích của nạn nhân dưới 11%  thì anh này sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

 

+ Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại:

 

“1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.

 

2. Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.

 

3. Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức”.

 

Như vậy, khi có kết luận của Hội đồng giám định y khoa và bên Cơ quan công an nhận định hành vi của anh này sẽ bị xử phạt theo khoản 1 Điều 134 BLHS 2015 và bên thiệt hại đã có đơn yêu cầu bãi nại, không truy cứu trách nhiệm thì Cơ quan công an sẽ đình chỉ vụ án. Anh này sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

 

Trường hợp Cơ quan công an nhận đình hành vi của anh này sẽ bị xử phạt theo khoản 2 hoặc khoản 3 hoặc khoản 4…của Điều 134 thì dù không có đơn yêu cầu khởi tố của nạn nhân hoặc nạn nhân có đơn xin bãi nại thì Cơ quan công an vẫn sẽ ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo Điều 134 BLHS 2015.

 

+ Việc người nhà nạn nhân yêu cầu đưa 200 triệu vừa bồi thường vừa để không yêu cầu khởi tố vụ án. Đây là sự thỏa thuận giữa hai bên. Được coi là khoản tiền bồi thường chữa trị vết thương và hồi phục sức khỏe cho bị hại.

 

Điều 170 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tội Cưỡng đoạt tài sản như sau:


“1. Người nào đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

 

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

 

a) Có tổ chức;

 

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

 

c) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;

 

d) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

 

đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

 

e) Tái phạm nguy hiểm.

 

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

 

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

 

b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

 

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:

 

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

 

b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

 

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

 

Theo đó, cưỡng đoạt tài sản là hành vi mà người phạm tội đã dùng lời nói sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác để uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản. Thủ đoạn ở đây có thể là dùng lời nói đe dọa sẽ làm ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, gây áp lực rất lớn về tinh thần của người bị hại để buộc họ phải giao tài sản cho người phạm tội. Với hành vi của phía người nhà nạn nhân, họ đã dùng những thủ đoạn nhằm uy hiếp tinh thần gia đình anh này với mục đích hòng chiếm đoạt số tiền. Thủ đoạn ở đây là đã dùng những lời nói rằng nếu gia đình anh này mà hàng tháng không đưa tiền thì sẽ khởi kiện anh này vào tù. Uy hiếp tinh thần nhà anh này và đã yêu cầu gia đình anh này hàng tháng phải đưa tiền. Tổng số tiền mà phía nhà nạn nhân chiếm đoạt đã lên đến hàng trăm triệu đồng.

 

Như vậy, để đảm bảo quyền lợi của gia đình anh này cũng như tránh khỏi những lời đe dọa từ phía nạn nhân thì gia đình anh này có thể lên Cơ quan công an để trình báo về hành vi Cưỡng đoạt tài sản của nạn nhân. Với số tiền người nhà nạn nhân chiếm đoạt lên đến hàng trăm triệu đồng thì có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Cưỡng đoạt tài sản, tùy theo giá trị tài sản chiếm đoạt và mức độ gây nguy hiểm cho người khác, cho xã hội mà người phạm tội sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự với các mức khung hình phạt khác nhau.

 

+ Đồng thời gia đình anh này có thể làm đơn khởi kiện ra Tòa án nhân dân cấp huyện để đòi lại số tiền 500 triệu đã cho vay trước đây.

 

Điều 463 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về Hợp đồng vay tài sản: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”.

 

Theo đó, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản, theo sự thỏa thuận về kỳ hạn trả nợ, loại tài sản trả và bên vay có thể phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.

 

Ngoài số tiền anh này cho vay 500 triệu ban đầu thì phía người nhà nạn nhân hàng tháng còn đến đòi vay viên. Nếu gia đình anh này có bằng chứng ( hợp đồng vay, người làm chứng đã cho bên gia đình nạn nhân vay tiền…) chứng minh việc đã cho người nhà nạn nhân vay tiền thì làm đơn khởi kiện ra Tòa đề đòi lại số tiền đã cho vay và lãi suất nếu có thỏa thuận mức lãi suất.

 

Trân trọng!

Phòng luật sư tư vấn Luật Hình sự - Công ty Luật Minh Gia.

 

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

0971.166.169