LS Thanh Hương

Ly hôn vì có quan hệ đồng giới thế nào?

Tôi xin chào luật sư, nhờ luật sư tư vấn về vấn đề pháp lý liên quan đến ngoại tình của những người cùng giới tính, thủ tục ly hôn do có quan hệ đồng giới như sau: Chúng tôi là người đồng giới tính. Vì trách nhiệm bạn tôi đã lấy một người gay chỉ để làm bình phong. Và người gay đó cũng đang có người yêu họ đã sống chung với nhau 5 năm. Bạn tôi và ng đó lấy nhau được 6 tháng thì lục đục. Gia đình phát hiện ra chúng tôi yêu nhau.

Và phát hiện cuộc hôn nhân đó. Nhưng 2 ng đã đăng kí giấy kết hôn. Trong 1 lần tôi và a gay kia có xô xát đánh nhau. Vì bị áp lực từ gia đình và hôn nhân. Bạn tôi muốn ly hôn nhưng anh kia dọa bạn tôi là kiện 2 chúng tôi ngoại tình và nói có bằng chứng là ảnh chúng tôi chụp chung với nhau. Và kiện tôi lên nhà 2 người đó đang sống làm đảo lộn mọi thứ và đánh anh ý. Hôm đó tôi được chủ nhà là bạn ý dẫn lên, anh ý cũng ở nhà và biết tôi lên nhà chơi. Tôi muốn hỏi bạn tôi ly hôn có bị chịu thiệt gì không. Ly hôn đơn phương có được không. Tài sản trong nhà đều do anh kia sắm hết.

Trả lời:

Cảm ơn bạn đã tin tưởng lựa chọn tư vấn bởi Công ty Luật Minh Gia, chúng tôi xin tư vấn cho trường hợp của bạn như sau:

Trong trường hợp hai vợ chồng người bạn của bạn kết hôn chỉ nhắm mục đích che giấu giới tính thật hay nhằm mục đích khác mà không phải mục đích xây dựng gia đình, thì đây được cho là kết hôn giả tạo theo quy định tại Điều 3 – Luật Hôn nhân và gia đình:

Điều 3. Giải thích từ ngữ

11. Kết hôn giả tạo là việc lợi dụng kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, nhập quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích xây dựng gia đình.

Đồng thời luật này cũng có quy định việc kết hôn giả tạo là hành vi bị cấm tại Điều 5 như sau:

Điều 5. Bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình

2. Cấm các hành vi sau đây:

a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;

...

Về điều kiện kết hôn, Điều 8 của Luật Hôn nhân và gia đình 2010 có đề cập đến 4 điều kiện:

Điều 8. Điều kiện kết hôn

1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:

a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;

b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;

c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;

d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này.

Như vậy, kết hôn giả tạo sẽ được coi là không đủ điều kiện kết hôn. Khi đó, nếu có yêu cầu thì Tòa án sẽ xử lý việc kết hôn trái pháp luật theo quy định của Điều 11 – Luật Hôn nhân và gia đình:

Điều 11. Xử lý việc kết hôn trái pháp luật

1. Xử lý việc kết hôn trái pháp luật được Tòa án thực hiện theo quy định tại Luật này và pháp luật về tố tụng dân sự.

2. Trong trường hợp tại thời điểm Tòa án giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật mà cả hai bên kết hôn đã có đủ các điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật này và hai bên yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân đó. Trong trường hợp này, quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm các bên đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này.

3. Quyết định của Tòa án về việc hủy kết hôn trái pháp luật hoặc công nhận quan hệ hôn nhân phải được gửi cho cơ quan đã thực hiện việc đăng ký kết hôn để ghi vào sổ hộ tịch; hai bên kết hôn trái pháp luật; cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

4. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn Điều này.

Theo đó, nếu có yêu cầu thì tòa án sẽ ra quyết định hủy kết hôn trái pháp luật. Khi việc kết hôn trái pháp luật bị hủy, hai bên sẽ chấm dứt quan hệ vợ chồng.

Nếu trong trường hợp khó đưa ra căn cứ chứng minh cuộc hôn nhân này là giả tạo, thì bạn của bạn vẫn có thể giải quyết theo thủ tục ly hôn đơn phương để chấm dứt quan hệ vợ chồng với người kia:

Điều 56. Ly hôn theo yêu cầu của một bên

"Xem trích dẫn quy định"

Khi giải quyết yêu cầu ly hôn thì vấn đề giải quyết tài sản sẽ được thực hiện thao quy định tại Điều 59 Luật này:

Điều 59. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn

"Xem trích dẫn quy định về nguyên tắc chia tài sản"

Theo đó, nếu tài sản trong nhà do người chồng mua, nhưng cần xác định số tiền anh ta dùng để mua có được coi là khối tài sản chung của vợ chồng trong hôn nhân hay không, vì ngay cả tiền lương trong quá trình lao động phát sinh trong quá trình hôn nhân cũng được coi là tài sản chung của vợ và chồng.

Còn về vấn đề người chồng kia muốn kiện hai bạn về hành vi ngoại tình, hiện tại quy định của pháp luật chỉ ghi nhận xử lý trường hợp vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng tại Điều 48 – Nghị định 110/2013/NĐ-CP và Điều 182 – Bộ luật Hình sự 2015:

Điều 48. Hành vi vi phạm quy định về cấm kết hôn, vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng; vi phạm quy định về ly hôn

1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:

...

b) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;

c) Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;

Điều 182. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng

1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:

a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;

b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.

...

Theo đó, khi xác định hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng,  pháp luật chỉ xử lý hành vi chung sống như vợ chồng với người khác dù đang có quan hệ hôn nhân. Trong trường hợp của hai bạn, người chồng kia tuy có những bức ảnh chụp chung của cả hai nhưng chỉ từ đó cũng không thể chứng minh hai bạn có chung sống với nhau.

Ngay cả khi hai bạn có chung sống trên thực tế thì giữa hai bạn sẽ không được công nhận là chung sống như vợ chồng, bởi pháp luật Việt Nam thời điểm hiện tại vẫn chưa công nhận hôn nhân giữa những người đồng giới tính nên việc những người đồng giới chung sống với nhau không được coi là chung sống như vợ chồng. Do vậy, người chồng không đủ căn cứ để yêu cầu cơ quan có thẩm quyền để giải quyết trường “ngoại tình” này.

Trân trọng.

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo