Nguyễn Thị Tuyết Nhung

Ly hôn khi chồng có con riêng, đánh đập vợ và có con riêng thế nào?

Ly hôn là một trong những vấn đề quan trọng mà các cặp vợ chồng cần đặc biệt cân nhắc trước khi thực hiện. Đương nhiên cũng không phải trường hợp nào khi có yêu cầu ly hôn cũng được Tòa án có thẩm quyền tiếp nhận và giải quyết ly hôn. Theo quy định của pháp luật hiện hành, để được ly hôn người yêu cầu ly hôn phải đưa ra được những căn cứ phù hợp.

 1. Tư vấn về trường hợp ly hôn đơn phương khi chồng ngoại tình, có con riêng, đánh đập vợ con.

Xin chào luật sư, tôi xin hỏi luật sư về vấn đề sau: Chị A có chồng là anh B, hai người có 2 người con là 4 tuổi và 1 tuổi ( tính đến năm 2019). Anh B hay đi làm xa nhà, chị A ở nhà vừa làm việc vừa nuôi con đứa lớn ở nhà ông bà nội và mỗi tháng A đều gửi tiền để ông bà trông. Tháng 10- 2018 chị A có phát hiện anh B ngoại tình với C, anh B có hành vi đánh đập và chửi bới chị A khi 2 người cãi nhau về việc anh B ngoại tình, họ vẫn chưa giải quyết được với nhau. Anh B dọn ra sống chung với C, A vẫn tiếp tục đi làm và nuôi con, đứa lớn ở với ông bà nội, đứa nhỏ A nuôi. Nay đến 5/2019 thì C có thai với anh B. Chị B muốn ly hôn và giành quyền nuôi con, thì thủ tục ly hôn như thế nào, làm thế nào để giành quyền nuôi 2 đứa con.

Trả lời: Cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến Công ty Luật Minh Gia. Với vấn đề của bạn, chúng tôi xin đưa ra tư vấn như sau:

Thứ nhất, về việc ly hôn đơn phương.

Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình quy định:

“1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.”

Theo thông tin bạn cung cấp, anh B là chồng chị A có hành vi ngoại tình, đang sống chung với chị C, chị C đang có thai, do đó, anh B đang vi phạm nghĩa vụ trong thời kỳ hôn nhân – nghĩa vụ chung thủy và anh C có hành vi đánh đập và chửi bới chị A khi hai người cãi nhau về việc anh B ngoại tình. Những hành vi kể trên của anh B dẫn đến tình trạng hôn nhân trầm trọng, không thể tiếp tục sống chung là căn cứ để Tòa án giải quyết yêu cầu ly hôn đơn phương của chị A.

Thứ hai, thủ tục ly hôn đơn phương.

Chị A cần nộp hồ sơ khởi kiện về việc xin đơn phương ly hôn tại Tòa án nhân dân cấp quận/huyện nơi anh B đang cư trú, làm việc, hồ sơ bao gồm:

+   Đơn xin ly hôn (theo mẫu);

+   Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn (bản chính);

+   Sổ hộ khẩu, Chứng minh thư nhân dân của vợ, chồng (bản sao chứng thực);

+   Giấy khai sinh của con (bản sao chứng thực);

+   Nếu có yêu cầu giải quyết chia tài sản cần cung cấp các tài liệu, chứng cứ về tài sản như: Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất (sổ đỏ); Đăng ký xe; sổ tiết kiệm… (bản sao chứng thực);

Sau khi Tòa án thụ lý đơn của chị A, chị A cần thực hiện các nghĩa vụ tài chính về tiền tạm ứng án phí và nộp lại biên lai cho Tòa án.

Thứ ba, về việc giành quyền nuôi con.

Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định:

“1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”

Trường hợp của chị A có hai người con, một con 4 tuổi và một con 1 tuổi và muốn giành quyền nuôi dưỡng con sau khi ly hôn.

Nếu hai vợ chồng chị A, anh B có thỏa thuận về việc nuôi con sau ly hôn, chị A sẽ được nuôi cả hai con nếu hai người thỏa thuận được với nhau về việc giao con cho chị A nuôi dưỡng sau khi ly hôn.

Nếu hai vợ chồng không thể thỏa thuận với nhau về người trực tiếp nuôi con sau hôn nhân, Tòa án sẽ quyết định quyền nuôi con dựa trên lợi ích về mọi mặt của các con.

Với con 1 tuổi, tức là dưới 36 tháng tuồi sẽ được giao cho chị A nuôi dưỡng trừ trường hợp chị không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục con. Với bé 4 tuổi, Tòa án sẽ căn cứ vào điều kiện thực tế của hai vợ chồng để quyết định giao con 4 tuổi cho chị A hoặc anh B dựa trên các yếu tố như sau:

- Điều kiện vật chất – kinh tế của chị A về việc đảm bảo môi trường sinh sống, học tập, vui chơi, chăm sóc sức khỏe cho con,... dựa trên tài sản, thu nhập, nơi sống của chị A;

- Điều kiện tinh thần về mối quan hệ gắn bó giữa mẹ và con, thời gian chăm sóc, dạy dỗ, giáo dục con, tình cảm đã dành cho con từ trước đến nay, điều kiện cho con vui chơi giải trí, nhân cách đạo đức, trình độ học vấn … của chị A.

Việc anh B thường xuyên phải đi làm xa nhà, không thể trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sẽ là một lợi thế để chị A giành được quyền nuôi cả 2 con.

2. Thủ tục giải quyết ly hôn và tranh chấp quyền được nuôi con khi một bên có con riêng thế nào?

Nội dung câu hỏi: Văn phòng luật cho tôi hỏi về giải quyết ly hôn và tranh chấp quyền nuôi con như sau: Chị gái tôi hiện đang có hai con nhỏ. Đứa lớn lên 9, đứa nhỏ lên 2. Hoàn cảnh sống rất khó khăn. Trước khi lấy chị tôi, anh ta đã có 1 đứa con riêng. Sau khi hai người lấy nhau, bố mẹ chồng cho một mảnh đất 30m2 để xây nhà ở riêng.

Chồng chị tôi thường xuyên đánh đập và đuổi chị ra khỏi nhà. Tôi muốn biết nếu hai người ly hôn thì tòa có cho chị tôi nuôi cả hai đứa bé không? Nếu chồng chị tôi viết giấy tặng ngôi nhà cho đứa con riêng của ông ấy thì có hợp pháp không?

Tư vấn: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia, trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

- Thứ nhất, về vấn đề nuôi con chung.

Vấn đề này được quy định tại Khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 (đã được trích dẫn tại phần tư vấn trên).

Theo quy định này của pháp luật, việc ai là người trực tiếp nuôi hai cháu nhỏ do hai bên vợ, chồng tự thỏa thuận, nhưng về nguyên tắc, cháu nhỏ 2 tuổi sẽ được giao cho chị gái bạn nuôi. Đối với cháu nhỏ 9 tuổi, Tòa án sẽ quyết định giao cho bên nào đáp ứng được quyền lợi về mọi mặt của cháu, đồng thời xem xét đến nguyện vọng của cháu. Do vậy, để có quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu nhỏ 9 tuổi này, về cơ bản là chị bạn phải chứng minh được có khả năng đáp ứng được quyền lợi về mọi mặt cho cháu.

Tuy nhiên, cũng cần lưu ý, tại Điều 84 Luật này có quy định về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn. Theo đó, vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con nếu người trực tiếp nuôi con không bảo đảm quyền lợi về mọi mặt của con và phải tính đến nguyện vọng của con, nếu con từ đủ 7 tuổi trở lên.

- Thứ hai, về vấn đề ngôi nhà trên mảnh đất 30m2.

 Khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 có quy định sau:

“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.”

Vì bạn không nói rõ bố mẹ chồng tặng cho mảnh đất là tặng cho riêng chồng chị gái bạn hay tặng cho chung cả hai vợ chồng.Do đó chúng tôi chia thành các trường hợp sau:

- Trường hợp 1: Nếu đây là tài sản tặng cho chung cả hai vợ chồng thì mảnh đất và căn nhà là tài sản chung của vợ chồng chị gái bạn.

Khoản 2 và 3 Điều 213 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định:

“…2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.

3. Vợ chồng thoả thuận hoặc uỷ quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung…”

Theo đó, chồng chị gái bạn nếu muốn tặng cho ngôi nhà, thì phải có sự bàn bạc thỏa thuận hoặc ủy quyền với chị gái bạn, chứ không thể một mình quyết định và thực hiện việc tặng cho này. Nếu không thỏa thuận được thì người chồng chỉ có thể tặng cho phần tài sản của mình trong khối tài sản chung.

- Trường hợp 2: Nếu bố mẹ chồng tặng cho riêng chồng chị gái bạn thửa đất này thì theo Điều 43 Luật hôn nhân và gia đình 2014, đây sẽ được xác định là tài sản riêng của người chồng. Khi đó, người chồng có quyền định đoạt tài sản riêng của mình. Chị gái bạn sẽ được chia một phần tài sản nếu có công sức đóng góp trong việc tạo lập, cải tạo ngôi nhà.

Trân trọng 

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo