Ly hôn do vợ chồng không hợp nhau, quyền nuôi con và tài sản chia thế nào?
Tôi có con được 2 tháng tuổi rồi, vì vậy quyền nuôi dưỡng thuộc về tôi có phải không? lúc đám cưới bên nhà trai không đưa tiền chợ cho nhà gái, theo kiểu nhà ai nấy lo vậy. Rồi ngày đám cưới nhà trai chỉ đưa qua tiền đồng và 1 số vàng cho nhà gái thôi, bây giờ tôi muốn ly hôn thì chồng tôi hỏi vàng đó, có ý muốn lấy lại. Vậy cho tôi hỏi, những thứ đó có được xem là của chung hay ko? có dùng làm tài sản phân chia hay không?
Trả lời: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia, trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:
* Thứ nhất, về quyền nuôi con sau khi ly hôn:
Căn cứ theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình 2014 về Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn như sau:
“1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”
Về nguyên tắc, việc nuôi con khi ly hôn trước hết do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết, con dưới 36 tháng tuổi sẽ giao cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi mọi mặt cho con, Tòa án sẽ xem xét các yêu tố sau đây để đưa ra quyết định sẽ giao con cho ai nuôi dưỡng.
Như vậy, trường hợp con dưới 3 tuổi thì quyền nuôi con thuộc về người mẹ (trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác). Theo như bạn cung cấp, vì con của hai bạn hiện mới chỉ được 2 tháng tuổi, nên về nguyên tắc, bạn sẽ là người nuôi con nếu hai vợ chồng bạn không có thỏa thuận gì khác. Và chồng bạn sẽ có nghĩa vụ cấp dưỡng để nuôi đứa trẻ, do chồng bạn không trực tiếp nuôi con. Ngoài ra, cũng xin lưu ý thêm với bạn một điểm đó là: Do điều kiện 2 bạn có con nhỏ dưới 12 tháng tuổi, nên chồng của bạn không có quyền yêu cầu xin ly hôn, dựa trên quy định tại Khoản 3 Điều 51, Luật hôn nhân và gia đình 2014về Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn.
* Thứ hai, về vấn đề tranh chấp tài sản phát sinh khi li hôn của hai bạn, cụ thể ở đây là phần tài sản bao gồm tiền mặt và số vàng mà gia đình nhà trai đã đưa cho nhà gái trong ngày cưới. Căn cứ quy định tại Điều 59, Luật hôn nhân và gia đình 2014 về nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn:
“1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.
Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.
2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.
Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác….”
Do chúng tôi không nắm được cụ thể số tài sản trên gia đình chồng bạn đưa cho gia đình bạn trong ngày cưới là giao riêng cho gia đình của bạn (không bao gồm bạn) làm lễ vật hay là giao cho bạn, nên chúng tôi xin tư vấn như sau:
Trong trường hợp 2 bạn thỏa thuận được, thì phần tài sản đã nêu trên được phân chia dựa trên sự thỏa thuận của hai bạn.
Trong trường hợp hai bạn không thỏa thuận được, có thể yêu cầu Tòa án giải quyết. Khi đó, nếu có căn cứ để chứng minh số tài sản nêu trên là số tài sản nhà trai đã tặng riêng cho cho bạn hoặc gia đình bạn, thì đó được xác định là tài sản riêng của bạn hoặc gia đình bạn, bạn không cần phải trả lại, do tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó. Ngược lại, nếu không có căn cứ để chứng minh, thì số tài sản trên sẽ được chia đôi cho hai vợ chồng bạn (do đây là tài sản chung được xác lập trong thời kì hôn nhân) hoặc được giao trả lại cho gia đình chồng bạn (nếu là tài sản mà gia đình chồng bạn đã đưa cho gia đình bạn – không bao gồm bạn trong đó).
Ở đây, bạn cần đảm bảo làm rõ được các căn cứ mà chúng tôi đã để nghị ở trên, để làm tiền đề cho việc giải quyết tranh chấp tài sản giữa hai bạn.
Trân trọng
Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất