Khi nào thì không khởi tố vụ án hình sự?
1. Quy định pháp luật về khởi tố vụ án hình sự
1.1. Căn cứ khởi tố vụ án hình sự
Điều 143 BLTTHS 2015 quy định về căn cứ khởi tố vụ án hình sự như sau:
“Chỉ được khởi tố vụ án khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm.Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những căn cứ:
1. Tố giác của cá nhân;
2. Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
3. Tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng;
4. Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước;
5. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm;
6. Người phạm tội tự thú.”
Từ quy định trên có thể thấy, chỉ khi xác định có dấu hiệu tội phạm thì mới khởi tố vụ án hình sự. Theo Bộ luật hình sự 2015. Hành vi bị coi là tội phạm có 4 dấu hiệu: nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, được quy định trong luật hình sự và phải chịu hình phạt.
1.2. Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự
Theo Điều 153 BLTTHS, cơ quan điều tra quyết định khởi tố vụ án hình sự với tất cả vụ việc có dấu hiệu tội phạm, trừ những vụ việc do cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử đang thụ lý, giải quyết theo quy định.
1.3. Thời hạn khởi tố vụ án hình sự
Theo Khoản Điều 147 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, thời hạn khởi tố vụ án hình sự là 20 ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, có thể kéo dài nhưng không quá 02 tháng và có thể gia hạn một lần nhưng không quá 02 tháng, như vậy thời hạn khởi tố vụ án hình sự tối đa là 04 tháng.
2. Các trường hợp không khởi tố vụ án hình sự
Các trường hợp không khởi tố vụ án hình sự được quy định tại Điều 157 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 gồm các trường hợp sau:
1. Không có sự việc phạm tội;
2. Hành vi không cấu thành tội phạm:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự; Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác (Điều 8 BLHS). Như vậy nếu không thỏa mãn một trong các điều kiện trên thì hành vi không cấu thành tội phạm
3. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu TNHS:
Tuổi chịu TNHS được quy định tại Điều 12 BLHS 2015. Theo đó, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. Người chưa đủ 14 tuổi không phải chịu TNHS về bất kỳ tội nào; Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 (Điều 12 BLHS).
4. Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật:
Về nguyên tắc, không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm, một người chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự và bị xét xử một lần đối với một hành vi phạm tội.
5. Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự:
Thời hiệu truy cứu TNHS được quy định tại Điều 27 BLHS như sau: 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng, 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng, 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng, 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
6. Tội phạm đã được đại xá:
Đại xá là sự khoan hồng của nhà nước gồm không truy cứu TNHS, tha tội hoàn toàn, miễn hình phạt cho một số loại tội phạm nhất định với hàng loạt người phạm tội trong tất cả các giai đoạn tố tụng/thi hành án (không phân biệt đã chấp hành hình phạt hay bị truy tố xét xử hay chưa), thường được áp dụng khi trong những dịp sự kiện quan trọng của đất nước.
7. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác:
Khi người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết thì họ không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa.
8. Thuộc trường hợp chỉ khởi tố khi có yêu cầu của bị hại mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố:
Các trường hợp chỉ khởi tố khi có yêu cầu của bị hại được quy định tại Điều 155 BLTTHS gồm Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự.
Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất