Sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn?
Câu hỏi tư vấn: Nhờ luật sư tư vấn trường hợp vợ chồng không đăng ký kết hôn sau năm 1987 có được coi là vợ chồng và chế độ, quyền tài sản với nhau thế nào vì theo luật hôn nhân gia đình thì trường hợp này không được pháp luật công nhận là vợ chồng hợp pháp.
Tuy nhiên có vấn đề phát sinh như sau: Tài sản của 1 trong 2 người đứng tên mang đến Ngân hàng để thế chấp. Ngân hàng yêu cầu đăng ký kết hôn hoặc xác nhận tình trạng hôn nhân (nếu độc thân) để xác định tài sản thuộc sở hữu của ai. Tuy nhiên, họ đã sống chung với nhau như vợ chồng và trên hộ khẩu cũng thể hiện mối quan hệ đó nên không thể xác nhận tình trạng hôn nhân là độc thân được nên không thể để 1 người ra ký hợp đồng thế chấp được. Đồng nghĩa với việc khi ra công chứng hợp đồng thế chấp thì phải có 2 người cùng ký tên vào hợp đồng thế chấp.
Đến đây lại phát sinh trường hợp tài sản đó có phải là tài sản chung của 2 người hay không? Nếu là tài sản chung thì sao? Riêng thì sao? Nếu cả 2 cùng ký và không có căn cứ chứng minh tài sản là tài sản chung thì nếu rủi ro xảy ra hợp đồng thế chấp đó có hiệu lực hay không?
Nếu có văn bản cam kết là tài sản riêng trên văn bản thể hiện tôi là chồng/vợ của bà/ông A và không có đóng góp gì vào việc hình thành tài sản trên. Người còn lại đem văn bản cam kết đó, kèm với GCN mang đến NH thế chấp. Có nghĩa là khi kí hợp đồng thế chấp chỉ có 1 người ký tên. Đến đây lại phát sinh vấn đề người ký bản cam kết đó có phải là chồng/vợ của bà/ông A hay không? Vì không có gì chứng minh điều đó. Vậy trong trường hợp này cam kết đó có vô hiệu hay không? Và dẫn đến hợp đồng thế chấp vô hiệu hay không?
Vậy suy ra với 2 người không đăng ký kết hôn sau năm 1987 vậy họ làm thế nào để xác định được mối quan hệ của họ? ủy ban nơi họ cư trú có xác nhận được mối quan hệ của họ là sống chung như vợ chồng hay không? Em kinh xin anh/chị giải đáp giúp em vấn đề này ạ, em chân thành cảm ơn!
Trả lời tư vấn: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn tới công ty Luật Minh Gia, với trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:
Theo quy định pháp luật thì đối với những trường hợp chung sống như vợ, chồng sau năm 1987 mà không thực hiện việc đăng ký kết hôn thì quan hệ của họ không được pháp luật công nhận là vợ, chồng hợp pháp. Do đó, trường hợp có tài sản thì sẽ được giải quyết theo quy định Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.Cụ thể theo quy định:
"Điều 16. Giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
1. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.
Như vậy, đối chiếu quy định trên với trường hợp của bạn thì không đặt ra vấn đề chứng minh họ có phải vợ, chồng tài sản chung vợ, chồng hay không vì thực tế quan hệ của họ không được công nhận là vợ chồng hợp pháp. Do đó, chỉ chứng minh tài sản chung, riêng của hai bên tức trong trường hợp quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền trên đất chỉ đứng tên một trong hai người thì tài sản đó xác định là tài sản riêng của họ, họ có quyền định đoạt mà không cần sự đồng ý của người còn lại.
Trường hợp người còn lại không đứng tên trên giấy chứng nhận nếu muốn xác định đó là tài sản chung, quyền định đoạt chung của hai người thì phải chứng minh được công sức đóng góp trong quá trình để mua quyền sử dụng đất (góp tiền mặt có biên lai, biên lai hóa đơn về mua nguyên nhiên vật liệu nếu có xây dựng nhà cửa, bỏ công sức lao động....).
+ Theo đó, trong trường hợp tài sản riêng của một người thì việc mang tài sản đó thế chấp tại ngân hàng chỉ cần do người đứng tên trên giấy chứng nhận đứng ra giao dịch mà không cần chữ ký, sự đồng ý của người còn lại (mặc dù họ cùng có tên trên sổ hộ khẩu nhưng không đồng nghĩa với việc chứng minh quan hệ của họ là vợ, chồng hợp pháp được). Nên trường hợp phía bên ngân hàng yêu cầu giấy tờ xác minh về mối quan hệ thì chỉ cần liên hệ với Uỷ ban nhân dân cấp xã để xin giấy xác nhận tình trạng độc thân (có thể xác nhận được vì thực tế hai người không có đăng ký kết hôn). Do đó, giao dịch thế chấp ký xác nhận hai bên có công chứng hoặc chứng thực cơ quan nhà nước có thẩm quyền là giao dịch hợp pháp, có giá trị pháp lý.
+ Trường hợp, một người đứng tên trên giấy chứng nhận, còn người chung sống cùng không có tên trên giấy chứng nhận nhưng chứng minh được có góp công sức để mua được quyền sử dụng đất đó (góp tiền mặt có biên lai, biên lai hóa đơn về mua nguyên nhiên vật liệu nếu có xây dựng nhà cửa, bỏ công sức lao động....) thì được xác định là tài sản chung của hai người.
Do vậy, hai bên tự liên hệ Uỷ ban xã để xác nhận tài sản chung hoặc lựa chọn theo hướng khởi kiện ra Tòa để xác nhận. Đối với yêu cầu của Ngân hàng yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân thì vẫn chỉ cung cấp giấy xác nhận độc thân, kèm theo giấy xác nhận tài sản chung nộp Ngân hàng để họ xác định, còn việc Ngân hàng họ có chấp nhận cho vay hay không đó hoàn toàn do sự thỏa thuận của hai bên với nhau. Nếu được xác định là tài sản chung thông qua bản án của Tòa/văn bản xác nhận của Uỷ ban mà một bên đứng ra giao dịch thì đương nhiên giao dịch đó là vô hiệu.
Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về việc giải quyết chế độ tài sản khi không đăng ký kết hôn. Trường hợp còn vướng mắc, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua email hoặc qua tổng đài để được tư vấn trực tuyến.
Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất