Nguyễn Kim Quý

Gây thương tích 90% cho người khác thì có cấu thành tội giết người?

Luật sư tư vấn về tội cố ý gây thương tích, tội giết người và cướp tài sản. Thời hạn tạm giam với hành vi giết người và cướp tài sản được quy định như thế nào? Nếu người bị hại rút đơn thì có bị truy cứu trách nhiệm hình sự nữa không?

Nội dung tư vấn: Xin chào luật sư công ty luật Minh Gia. Tôi có câu hỏi và thắc mắc như sau mong luật sư tư vấn và giải đáp giúp tôi. Tôi có người em trai năm nay 20 tuổi. 1 lần đi chơi cùng bạn bè thì có xảy ra va chạm đánh nhau. Bạn em trai tôi đuổi đánh nhưng lại đánh nhầm người khác gây thương tích cho người đó khoảng 90% sức khỏe. Vì có mặt và đi cùng nhau nên sau đó em trai tôi được cho là đồng phạm và bị bắt tạm giam đến nay xấp xỉ 9 tháng. Lúc có lệnh bắt thì công an viết là tội cố ý gây thương tích nhưng đến nay lại viết là tội giết người cướp của. Trong thời gian em tôi bị tạm giam, gia đình tôi và gia đình bạn của em tôi vẫn đi lại hỏi thăm và mỗi nhà đưa tiền cho gia đình người bị hại số tiền ~200 triệu một nhà. Trong khi đó gia đình người bị hại hứa sẽ không kiện cáo gì chỉ cần các gia đình đi lại thăm nom nhưng đến nay tòa án lại đưa giấy xử vụ án của em trai tôi với nguyên nhân là giết người cướp của trong khi đây chỉ là va chạm cá nhân, người bị hại cũng không mất gì. Vì vậy tôi xin luật sư tư vấn cho tôi và gia đình tôi được biết. Hoàn cảnh của em trai tôi như thế thì bị xử phạt như thế nào, thời gian tạm giam có nhiều quá không và tòa án đưa giấy xét xử em tôi với tội danh như vậy có đúng không. Nếu gia đình người bị hại không kiện hoặc rút đơn kiện thì như thế nào. Xin chân thành cảm ơn luật sư.

 

Trả lời: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đến công ty Luật Minh Gia, với câu hỏi của bạn, chúng tôi xin tư vấn như sau:

 

Theo thông tin bạn cung cấp thì em trai bạn đi chơi cùng bạn bè thì có xảy ra xích mích đánh nhau, kết quả là bạn của em trai bạn có gây thương tích cho người khác dẫn đến thiệt hại 90% sức khỏe. Em của bạn bị tạm giam vì là đồng phạm và bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi giết người cướp của. Để xác định việc truy cứu trách nhiệm hình sự với em trai bạn như vậy là đúng hay sai thì cần xem xét hành vi của em bạn có đủ yếu tố cấu thành tội hình sự hay không và cấu thành tội nào. Việc xác định này dựa trên mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể của vụ việc. Vì thông tin bạn cung cấp chưa đầy đủ nên chúng tôi chưa thể khẳng định là việc em bạn bị truy cứu TNHS về hành vi giết người cướp của là đúng hay sai. Nếu em bạn trực tiếp thực hiện hành vi gây thương tích cho người khác hoặc đóng vai trò là người cầm đầu, người chủ mưu, xúi giục người khác hoặc tạo những điều kiện về mặt vật chất hoặc tinh thần cho người khác thực hiện hành vi gây thương tích cho người khác không nhằm mục đích tước đoạt mạng sống của người đó thì hành vi của em bạn chỉ cấu thành tội cố ý gây thương tích cho người khác theo quy định tại Điều 134 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017:

 

“Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

 

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

 

a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

 

b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;

 

c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

 

d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;

 

đ) Có tổ chức;

 

e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

…”

 

Trường hợp người bạn của em trai bạn có hành vi gây thương tích nhằm mục đích tước đoạt mạng sống của người khác và chiếm đoạt tài sản của người đó thì em trai bạn cũng sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi giết người và cướp tài sản theo quy định tại Điều 123 và Điều 168 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017:

 

“Điều 123. Tội giết người

 

1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:

 

a) Giết 02 người trở lên;

 

b) Giết người dưới 16 tuổi;

 

c) Giết phụ nữ mà biết là có thai;

 

d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;

 

đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

 

e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

 

g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;

 

h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;

 

i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;

 

k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;

 

l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;

 

m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;

 

n) Có tính chất côn đồ;

 

o) Có tổ chức;

 

p) Tái phạm nguy hiểm;

 

q) Vì động cơ đê hèn.

 

2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.

…”

“Điều 168. Tội cướp tài sản

 

1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.

 

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

 

a) Có tổ chức;

 

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

 

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;

…”

 

Hậu quả chết người và chiếm đoạt được tài sản không phải là yếu tố bắt buộc trong cấu thành tội phạm nên nếu người bạn của em trai bạn và em trai bạn có đủ những yếu tố cấu thành về tội hình sự rồi thì tuy chưa có hậu quả thiệt hại về tài sản và tính mạng, việc truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi giết người và cướp tài sản không trái quy định của pháp luật.

 

Về thời hạn tạm giam với em trai bạn thì theo quy định tại Điều 173 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 như sau:

 

“Điều 173. Thời hạn tạm giam để điều tra

 

1. Thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

 

2. Trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn tạm giam, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn tạm giam.

 

Việc gia hạn tạm giam được quy định như sau:

 

a) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 01 tháng;

 

b) Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 02 tháng;

 

c) Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 03 tháng;

 

d) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, mỗi lần không quá 04 tháng.

…”

 

Như vậy, tùy tính chất nghiêm trọng của vụ án của em bạn mà có thời hạn tạm giam tương ứng. Ngoài ra, tạm giam không chỉ áp dụng trong thời gian điều tra mà còn được áp dụng trong thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn áp dụng biện pháp tạm giam trong trường hợp này không quá thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định tại Điều 277 BLTTHS 2015:

 

“Điều 277. Thời hạn chuẩn bị xét xử

 

1. Trong thời hạn 30 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, 45 ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, 02 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, 03 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải ra một trong các quyết định:

 

a) Đưa vụ án ra xét xử;

 

b) Trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung;

 

c) Tạm đình chỉ vụ án hoặc đình chỉ vụ án.

 

Đối với vụ án phức tạp, Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 15 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Việc gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử phải thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp.

…”

 

Vì em bạn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi giết người và cướp tài sản và 2 tội này không thuộc những trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị hại theo quy định tại Điều 155 BLTTHS 2015:

 

“Điều 155. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại

 

1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.

 

2. Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.

 

3. Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.”

 

Như vậy, việc người bị hại không có đơn yêu cầu hoặc có rút đơn trong trường hợp này không ảnh hưởng đến quá trình tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, tức là, dù người bị hại không có đơn hoặc có rút đơn, em bạn vẫn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi đã thực hiện. Việc rút đơn của người bị hại hoặc người bị hại làm đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự chỉ có thể được Tòa án xem xét là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự với em bạn chứ không được coi là căn cứ để không truy cứu trách nhiệm với em bạn nữa.

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Đặt câu hỏi tư vấn
Chat zalo