Nguyễn Thị Thùy Dương

Đang bị tạm giam để điều tra có được bán tài sản không?

Tạm giam là biện pháp ngăn chặn được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự. Theo đó, bị can, bị cáo sẽ bị cách ly với xã hội trong một thời gian nhất định để đảm bảo việc điều tra, truy tố và xét xử được diễn ra thuận lợi và đúng với quy định pháp luật.

1. Người bị tạm giam để điều tra là gì?

Khoản 2 Điều 3 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam 2015 quy định về người đang bị tạm giam như sau: “Người bị tạm giam là người đang bị quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm giam, gia hạn tạm giam theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, bao gồm bị can; bị cáo; người bị kết án phạt tù, người bị kết án tử hình mà bản án chưa có hiệu lực pháp luật hoặc đang chờ thi hành án; người bị tạm giam để thực hiện việc dẫn độ.”

Theo đó, người bị tạm giam để điều tra được hiểu là người (bị can) đang bị quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm giam, gia hạn tạm giam theo quy định tại giai đoạn điều tra trong tố tụng hình sự. 

2. Quy định pháp luật về tạm giam

Theo quy định tại Điều 119 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021), tạm giam là biện pháp ngăn chặn được áp dụng đối với bị can, bị cáo khi cơ quan, cá nhân có thẩm quyền tiến hành tố tụng xét thấy cần thiết phải áp dụng để ngăn chặn việc bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án.  

Tuy nhiên, với mỗi đối tượng khác nhau, Bộ luật Tố tụng Hình sự có quy định về căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam là khác nhau. Cụ thể như sau: 

2.1. Bị can, bị cáo bị buộc tội về tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng

Đối với đối tượng này, pháp luật tố tụng hình sự không có quy định về căn cứ, điều kiện áp dụng biện pháp tạm giam. Do đó, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có quyền quyết định áp dụng biện pháp tạm giam đối với những đối tượng này nếu xét thấy cần thiết.

2.2. Bị can, bị cáo bị buộc tội về tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng

Tội ít nghiêm trọng và nghiêm trọng là những loại tội phạm có tính chất và mức độ gây nguy hiểm cho xã hội không quá lớn. 

Do đó, trong trường hợp này, biện pháp tạm giam chỉ được áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù trên 02 năm và có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp:

- Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;

- Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can;

- Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;

- Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;

- Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.

Ngoài ra, biện pháp tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.

2.3. Bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng 

Thông thường, bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng sẽ không bị áp dụng biện pháp tạm giam, trừ những trường hợp sau: 

- Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;

- Tiếp tục phạm tội;

- Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này;

- Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.

3. Đang bị tạm giam để điều tra có được bán tài sản không?

Khoản 1 Điều 9 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam 2015 quy định về quyền của người bị tạm giam như sau: 

“[...] e) Được gặp người đại diện hợp pháp để thực hiện giao dịch dân sự;

[...] 

k) Được hưởng các quyền khác của công dân nếu không bị hạn chế bởi Luật này và luật khác có liên quan, trừ trường hợp các quyền đó không thể thực hiện được do họ đang bị tạm giữ, tạm giam [...]”

Từ quy định trên có thể thấy, người bị tạm giam vẫn được pháp luật bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp trong đó có quyền định đoạt của chủ sở hữu. Hay nói cách khác, người đang bị tạm giam để điều tra vẫn có quyền được bán tài sản nếu không bị hạn chế bởi pháp luật liên quan. 

Tuy nhiên, để người bị tạm giam trực tiếp bán tài sản sẽ gặp phải những khó khăn nhất định vì họ đang bị cách ly với xã hội. Vì vậy, để thuận tiện hơn, người bị tạm giam có thể ủy quyền cho một người khác để thay mình thực hiện việc bán tài sản cũng như thực hiện các giao dịch dân sự khác.  

Như vậy, người đang bị tạm giam để điều tra vụ án hình sự vẫn có thể trực tiếp hoặc thông qua người đại diện hợp pháp để bán tài sản hoặc thực hiện các giao dịch dân sự khác (nếu có).

Trân trọng!

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

0971.166.169