Đinh Thị Minh Nguyệt

Đã ly hôn có khởi kiện vợ cũ ngoại tình được không?

Chào Luật sư, em nhờ Luật sư tư vấn giúp em về lĩnh vực hôn nhân gia đình là nguyên nhân dẫn đến một bên thực hiện quyền đơn phương ly hôn như sau: Em và vợ em kết hôn được 02 năm, có với nhau 01 đứa con gái 10 tháng tuổi, hiện nay em và vợ em đang làm thủ tục ly hôn, khoảng 2-3 ngày nữa có quyết định. Nguyên nhân dẫn đến ly hôn là vợ em ngoại tình từ lúc chưa có con tới giờ, nhưng em không có bắt gian tại giường, chứng cứ em có được là kết quả xét nghiệm ADN mà vợ em làm để xác định huyết thống cha con và vợ em đã thừa nhận chuyện cô ấy ngoại tình.

Luật sư cho em hỏi, liệu chứng cứ em có được như trên có đủ để kiện vợ tội ngoại tình hay không. Nếu kiện được thì hình phạt như thế nào và người tình của cô ấy có chịu phạt chung hay không. Sau khi có quyết định ly hôn thì em có kiện được nữa hay không. Nhờ Luật sư tư vấn giúp, chân thành cảm ơn.

Trả lời tư vấn: Chào bạn! Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi đề nghị tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia. Với trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

Đối với hành vi ngoại tình của vợ bạn có thể bị truy tố trách nhiệm hình sự nếu thỏa mãn một số điều kiện về cấu thành tội phạm. Cụ thể tại Điều 182 Bộ luật hình sự 2015 có quy định về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng như sau:

Điều 182. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng

1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:

a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;

b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;

b) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó”.

Do đó, vợ bạn và người đàn ông kia có thể bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm theo khoản 1 Điều 182 nếu có đủ 2 cấu thành tội phạm sau:

- Có hành vi chung sống như vợ chồng;

- Hành vi này là nguyên nhân trực tiếp “làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn” hoặc “đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chung sống như vợ chồng mà còn vi phạm”.

Theo những thông tin bạn cung cấp, bạn đã có chứng cứ là kết quả xét nghiệm ADN giữa bạn và đứa bé, việc vợ bạn ngoại tình là nguyên nhân chính dẫn đến bạn và vợ ly hôn. Như vậy nếu bạn có chứng cứ chứng minh vợ bạn và người đàn ông kia có việc chung sống với nhau, có hành vi chung sống như vợ chồng thì bạn có thể làm đơn trình báo đến cơ quan Công an nơi 2 người đang chung sống yêu cầu truy tố trách nhiệm hình sự, không phụ thuộc vào việc bạn chưa ly hôn hay đã ly hôn. 

Vậy như thế nào thì được coi là chung sống như vợ chồng? theo khoản 7 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có nêu chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng.

Thông tư liên tịch 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 25/9/2001 có hướng dẫn như sau:

“3.1. Chung sống như vợ chồng là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó...

3.2. Chỉ có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng gây hậu quả nghiêm trọng.

Hậu quả nghiêm trọng có thể là làm cho gia đình của một hoặc cả hai bên tan vỡ dẫn đến ly hôn, vợ hoặc chồng, con vì thế mà tự sát, v.v...

b) Người vi phạm chế độ một vợ, một chồng đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm".”.

Theo đó có thể hiểu chung sống như vợ chồng là việc có đời sống sinh hoạt chung, tổ chức một cuộc sống chung từ ngày này qua ngày khác một cách công khai hoặc không công khai nhưng những người sống chung cùng sinh hoạt chung như một gia đình; điều này được minh chứng bởi việc có tài sản chung, có con chung với nhau hoặc được những người xung quanh coi là vợ chồng.

Vậy, theo quy định trên, người đang có vợ mà chung sống như vợ chồng với người khác, hành vi là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc quan hệ hôn nhân của hai bên tan vỡ (ly hôn, hoặc vợ, chồng, con tự sát,...) hoặc người này đã bị xử phạt hành chính về hành vi chung sống như vợ chồng với người khác thì mới đủ dấu hiệu để CTTP đối với tội vi phạm chế độ một vợ một chồng.

Mức phạt đối với hành vi này là phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến một năm. Trường hợp hành vi làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong 2 bên tự sát; hoặc đã có quyết định của tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó thì mức phạt có thể lên tới 3 năm tù.

Nếu vợ bạn và người đàn ông kia có hành vi “chung sống như vợ chồng” nhưng hành vi này chưa gây hậu quả nghiêm trọng, chưa đủ yếu tố cấu thành “Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng” đã nêu ở trên thì họ không phải chịu trách nhiệm hình sự mà chỉ có thể bị xử phạt hành chính theo quy định tại khoản 1 Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP. Cụ thể như sau:

Điều 59. Hành vi vi phạm quy định về kết hôn, ly hôn và vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng

1. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:

a) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;

b) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;

c) Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;

…”

Trên thực tế, việc xử lý người ngoại tình thường chủ yếu dừng ở việc áp dụng các biện pháp xử lý kỷ luật về mặt đạo đức, lối sống theo điều lệ, quy chế của các cơ quan, tổ chức, đoàn thể mà họ tham gia. Còn theo quy định của pháp luật, người ngoại tình sẽ chỉ bị xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự nếu xuất hiện hành vi "sống chung" với người thứ 3 như vợ chồng hoặc kết hôn với người thứ 3 mà bản thân biết rõ là người đó đang có vợ, chồng.

Ngoài ra, pháp luật không có quy định khác về chế tài đối với những hành vi như cặp bồ hay quan hệ tình dục với người đã có gia đình. Bởi vậy, việc áp dụng pháp luật để nghiêm trị các trường hợp ngoại tình còn gặp nhiều khó khăn.

Như vậy, với những gì bạn trình bày về mối quan hệ giữa vợ bạn với một người đàn ông, nếu họ chỉ có hành vi ngoại tình nhưng chưa có hành vi chung sống với nhau như vợ chồng thì sẽ chưa thể xử lý hình sự được vì không có dấu hiệu tội phạm.

Tuy nhiên, bạn có thể khởi kiện dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (tham khảo bản án số 04/2020/DS-ST - Bản án về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: vợ ngoại tình phải bồi thường tổn thất tinh thần cho chồng) yêu cầu vợ bạn phải bồi thường tổn thất tinh thần do bạn bị tổn thương về danh dự, nhân phẩm, uy tín do hành vi ngoại tình của vợ bạn, bồi thường khoản tiền chi phí nuôi dưỡng con của vợ bạn do bạn bị lừa dối vì cho rằng đó là con đẻ của mình.

Hoạt động của con người là hoạt động có ý thức, mọi việc làm đều có mục đích. Bạn nuôi dưỡng chăm sóc đứa bé là được hưởng lợi về mặt tình cảm và trông cậy lúc tuổi già. Nhưng mục đích ấy đã không đạt được. Vì vậy, người gây thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường là phù hợp với quy định chung của pháp luật và vì lẽ công bằng.

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn