Bản án phúc thẩm có được kháng cáo không?
Mục lục bài viết
1. Bản án phúc thẩm có được kháng cáo không?
Điều 17 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 quy định như sau:
“1. Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm.
Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của Bộ luật này.
[…]
2. Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới theo quy định của Bộ luật này thì được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.”
Đồng thời, theo quy định tại Khoản 6 Điều 313 Bộ luật này thì: “Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.”
Có thể thấy, pháp luật tố tụng dân sự chỉ quy định về việc kháng cáo đối với bản án sơ thẩm. Còn đối với bản án phúc thẩm – có hiệu lực ngay tại thời điểm tuyên án thì được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm khi phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới.
Trong khi đó, Điều 325 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 quy định về tính chất của giám đốc thẩm như sau: “Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị giám đốc thẩm khi có căn cứ quy định tại Điều 326 của Bộ luật này.”
Tính chất của tái thẩm cũng được quy định tại Điều 351 Bộ luật này như sau: “Tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án, các đương sự không biết được khi Tòa án ra bản án, quyết định đó.”
Từ những quy định có thể xác định, bản án phúc thẩm của Tòa án chỉ có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm mà không thể bị kháng cáo.
2. Đương sự không đồng ý với bản án phúc thẩm thì làm như thế nào?
Điều 327 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 quy định về việc phát hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật cần xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm như sau: “Trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, nếu phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định đó thì đương sự có quyền đề nghị bằng văn bản với người có thẩm quyền kháng nghị quy định tại Điều 331 của Bộ luật này để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.”
Đồng thời, Điều 353 Bộ luật này cũng quy định về việc thông báo và xác minh tình tiết mới được phát hiện như sau: “Đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có quyền phát hiện tình tiết mới của vụ án và thông báo bằng văn bản cho người có thẩm quyền kháng nghị quy định tại Điều 354 của Bộ luật này.”
Theo đó, khi không đồng ý với bản án phúc thẩm, đương sự không thể trực tiếp kháng nghị mà phải đề nghị/ thông báo bằng văn bản cho người có thẩm quyền kháng nghị để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Tuy nhiên, trong trường hợp này, đương sự phải đưa ra căn cứ xác định bản án phúc thẩm cần xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
3. Căn cứ kháng nghị bản án phúc thẩm
Thủ tục kháng nghị bản án phúc thẩm được tiến hành bởi người có thẩm quyền kháng nghị, bao gồm: Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân nhân cấp cao, Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao.
Như phần trên đã phân tích, việc kháng nghị bản án phúc thẩm có thể là kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc thủ tục tái thẩm khi có căn cứ theo quy định pháp luật. Cụ thể như sau:
Đối với căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, Điều 326 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 quy định như sau:
“1. Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây:
a) Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự;
b) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật;
c) Có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án, quyết định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba.”
Đối với căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm, Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 quy định 04 căn cứ tại Điều 352 bao gồm:
“Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây:
1. Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự đã không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án;
2. Có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch không đúng sự thật hoặc có giả mạo chứng cứ;
3. Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật;
4. Bản án, quyết định hình sự, hành chính, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước mà Tòa án căn cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị hủy bỏ.”
Từ những phân tích nêu trên cho thấy, bản án phúc thẩm của Tòa án không thể bị kháng cáo mà chỉ có thể bị kháng nghị bởi người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm khi có các căn cứ mà Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 quy định.
Trân trọng!
Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất