Phạm Diệu

Tranh chấp về quyền nuôi con và tài sản khi ly hôn

Luật sư tư vấn về điều kiện giành quyền nuôi con và vấn đề chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Nội dung tư vấn như sau:

Dear Công ty Luật Minh Gia, tôi có một việc xin được Công ty Luật Minh Gia tư vấn giúp tôi như sau:Tôi và chồng tôi kết hôn năm 2003, đã có 2 con chung nữ (SN: 20/9/2004) và nam (SN: 06/7/2007) và sinh sống trên ngôi nhà do anh ý mua bằng tiền làm ăn được của anh ấy theo giấy tờ viết tay của chủ cũ bán lại cho anh ấy.Năm 2006 Quận cấp sổ đỏ (Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất), Chồng tôi đã tự nguyện đưa tên tôi trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ngôi nhà chúng tôi đang ở.Hiện nay tôi đang làm thủ tục ly hôn tại TAND Quận, Chúng tôi không có nợ chung, tài sản chung là ngôi nha, 2 con tôi đã viết đơn gửi TAND Quận có nguyện vọng được ở với tôi, còn chồng tôi không đồng ý ly hôn. Do vậy tôi phải đơn phương khởi kiện và yêu cầu được nuôi 2 con và chồng tôi đóng góp hàng tháng nuôi 1 cháu đến năm cháu 18 tuổi. Còn ngôi nhà tôi không yêu cầu tòa giải quyết mà để đến khi 2 cháu đủ 18 tuổi, tôi sang tên phần của tôi cho 2 cháu, Sau khi Tòa gọi lên hòa giải, chồng tôi đồng ý ly hôn với điều kiện được nuôi 1 cháu và tôi phải ký cho tặng ngôi nhà lại cho anh ấy vì ngôi nhà đó là của anh ấy.Thư ký tòa cũng nói với tôi: Trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chồng tôi đưa tên tôi vào nhưng chả có chữ ký gì của tôi cả (vì anh ấy tự nguyện), vì vậy phải đề nghị UBND Quận hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho vợ chồng tôi.Hiện tại tôi đưa 2 cháu thuê nhà ra ở riêng để tránh 2 cháu phải chứng kiến nhiều cuộc cãi vã, tôi chỉ có thu nhập bằng lương công chức, cuộc sống rất vất vả và cơ cực, chồng tôi 1/2 năm nay chưa 1 lần gọi điện thoại hay đến hỏi thăm con, cũng không có đóng góp gì.Xin Công ty Luật tư vấn giúp tôi làm thế nào để tôi:- Giành được quyền nuôi cả 2 cháu?- Tôi được hưởng bao nhiêu phần của ngôi nhà đang đứng tên chung?- Thư ký Tòa nói: Phải đề nghị UBND Quận hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho vợ chồng tôi do tôi không ký tá gì vào hồ sơ gốc có đúng hay không?Rất mong nhận được mail trả lời sớm của Công ty Luật Minh Gia để tôi ổn định tâm lý tiếp tục làm việc và nuôi 2 cháu nhỏ.Trân trọng!

Trả lời: Cảm ơn chị đã gửi yêu cầu tư vấn tới Công ty Luật Minh Gia. Với trường hợp của chị, chúng tôi tư vấn như sau:

Thứ nhất, về quyền nuôi 2 con

Tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định:

“Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn

1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”

Căn cứ quy định trên, vợ chồng có thể thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con. Trường hợp không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án xem xét ra quyết định. Tòa án sẽ xem xét ai là người trực tiếp nuôi con dựa vào việc xem xét quyền lợi về mọi mặt của con theo đó người trực tiếp nuôi con phải có các điều kiện như: nhân thân tốt và khả năng tài chính ổn định, lâu dài, có thời gian để chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Ngoài ra, nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

Như vậy, với trường hợp của chị để giành được quyền nuôi cả 2 con thì ngoài việc tham khảo nguyện vọng của các con đồng thời chị phải chứng minh chị đủ điều kiện (về nhân thân, tài chính) để nuôi dạy các con và chị cũng phải chứng minh người chồng không đủ các điều kiện nuôi con. Sau đó, Tòa án sẽ xem xét dựa trên căn cứ chị chứng minh được và ra quyết định giao con cho ai nuôi.

Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì người không trực tiếp nuôi con vẫn có nghĩa vụ cấp dưỡng và quyền thăm nuôi con:

“Điều 82. Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

1. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Thứ hai, phân chia tài sản khi ly hôn

Việc phân chia tài sản khi ly hôn phải xác định được tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng. Theo đó Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định cụ thể như sau:

Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng

1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.

Điều 43. Tài sản riêng của vợ, chồng

1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.

2. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này.

Căn cứ quy định trên, trường hợp ngôi nhà được mua bằng tiền của người chồng theo giấy tờ viết tay của hai bên. Đến năm 2006, người chồng đã tự nguyện đưa tên của chị trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, việc đó chứng minh rằng người chồng đã thừa nhận người vợ có quyền đối với mảnh đất và nhà trên đất. Vì thế, tài sản đó được coi là tài sản chung của vợ chồng.

Trường hợp vợ chồng khi ly hôn có quyền tự thỏa thuận với nhau về việc phân chia tài sản. Trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được mà có yêu cầu thì Tòa án phải xem xét, quyết định theo quy định tại Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình 2014 về nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn, đó là: Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi. Nhưng có tính đến các yếu tố sau đây: Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng; Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung…

Như vậy, với trường hợp của chị Tòa án sẽ xem xét và đưa ra quyết định. Trường hợp nếu người chồng nhận toàn bộ phần tài sản thì người chồng sẽ phải có nghĩa vụ thanh toán cho chị phần tài sản mà chị được hưởng.

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề chị hỏi và quan tâm. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ cần luật sư giải đáp, chị vui lòng gọi đến bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến của chúng tôi để được hỗ trợ kịp thời.

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo