LS Xuân Thuận

Vấn đề giành quyền nuôi con và chia tài sản khi ly hôn

Nhờ luật sư tư vấn như sau: Tôi và vợ kết hôn được 5 năm, đã có 2 con 1 con gái 5 tuổi và 1 con trai 4 tuổi. Vợ tôi là người Hoa nên con trai tôi dù đã lên 4 nhưng vẫn chưa nói được, đi khám bác sĩ nói do rối loạn ngôn ngữ giữa Việt và Hoa. Tôi đã khắc phục và nói với vợ nhưng vợ tôi không hiểu và làm cho cuộc sống gia đình thêm ngột ngạt, nay tôi muốn đơn phương ly hôn để lo cho tương lai các con tôi, vì nếu cứ như tình trạng này tôi không thể giúp con phát triển toàn diện được.

Về tài sản chung thì tỷ lệ của chúng tôi đóng góp là 6/4. 6 là phần của tôi, vợ là 4. Tôi muốn hỏi nếu ly hôn như thế thì tôi có được quyền nuôi con không? Nếu nuôi thì nuôi mấy đứa con? Tài sản sẽ chia như thế nào nếu chúng tôi không thỏa thuận được. Xin các luật sư tư vấn giùm tôi, để tôi sớm làm tròn trách nhiệm của người cha với các con mình.

Kính chúc quý vị Luật sư thành công và luôn mạnh khỏe, chúc gia đình quý vị luôn hạnh phúc và an vui! Mong sớm nhận được sự tư vấn từ quý Luật sư.

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn anh đã gửi câu hỏi cần tư vấn đến công ty Luật Minh Gia, trường hợp của anh chúng tôi tư vấn như sau:

1. Vấn đề quyền nuôi con

Về phân định quyền nuôi con, đối với trường hợp các cháu đều đã trên 36 tháng tuổi nhưng dưới 7 tuổi mà bố mẹ không thỏa thuận được với nhau về người trực tiếp nuôi con, Tòa án sẽ xem xét điều kiện mọi mặt của hai bên, bên nào có điều kiện tốt hơn thì giao cháu cho bên đó nuôi. Các điều kiện mọi mặt này sẽ bao gồm điều kiện cả về vật chất lẫn tinh thần.

Như vậy, nếu muốn giành quyền nuôi các cháu, anh cần chứng minh điều kiện mọi mặt của mình tốt hơn vợ chẳng hạn: thu nhập hàng tháng của anh cao, ổn định hơn vợ, thời gian làm việc thuận tiện chăm sóc cháu hơn, tính chất công việc không thường xuyên đi công tác,…

Bạn có thể tham khảo thêm tại bài viết “Tư vấn về giành quyền nuôi con” đã đăng trên trang web Luật Minh Gia.

Về việc được nuôi mấy cháu, hiện luật không quy định cụ thể nhất thiết phải hai bên bố mẹ mỗi người nuôi một cháu hay một người nuôi hai cháu, chỉ là thông thường khi cả hai bên bố mẹ đều muốn nuôi con, và đều cùng có đủ điều kiện để nuôi con thì Tòa có thể phân xử cho mỗi người trực tiếp nuôi 1 cháu.

2. Vấn đề phân chia tài sản

Điều 7 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn quy định tương đối chi tiết như sau:

“1. Vợ chồng khi ly hôn có quyền tự thỏa thuận với nhau về toàn bộ các vấn đề, trong đó có cả việc phân chia tài sản. Trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được mà có yêu cầu thì Tòa án phải xem xét, quyết định việc áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận hay theo luật định, tùy từng trường hợp cụ thể mà Tòa án xử lý như sau:

a) Trường hợp không có văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng hoặc văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị Tòa án tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn;

b) Trường hợp có văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng và văn bản này không bị Tòa án tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì áp dụng các nội dung của văn bản thỏa thuận để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Đối với những vấn đề không được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng hoặc bị vô hiệu thì áp dụng các quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4, 5 Điều 59 và các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật hôn nhân và gia đình để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.

2. Khi giải quyết ly hôn nếu có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu thì Tòa án xem xét, giải quyết đồng thời với yêu cầu chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.

3. Khi chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn, Tòa án phải xác định vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ về tài sản với người thứ ba hay không để đưa người thứ ba vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trường hợp vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ về tài sản với người thứ ba mà họ có yêu cầu giải quyết thì Tòa án phải giải quyết khi chia tài sản chung của vợ chồng. Trường hợp vợ chồng có nghĩa vụ với người thứ ba mà người thứ ba không yêu cầu giải quyết thì Tòa án hướng dẫn họ để giải quyết bằng vụ án khác.

4. Trường hợp áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn thì tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây để xác định tỷ lệ tài sản mà vợ chồng được chia:

a) “Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng” là tình trạng về năng lực pháp luật, năng lực hành vi, sức khỏe, tài sản, khả năng lao động tạo ra thu nhập sau khi ly hôn của vợ, chồng cũng như của các thành viên khác trong gia đình mà vợ chồng có quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Bên gặp khó khăn hơn sau khi ly hôn được chia phần tài sản nhiều hơn so với bên kia hoặc được ưu tiên nhận loại tài sản để bảo đảm duy trì, ổn định cuộc sống của họ nhưng phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế của gia đình và của vợ, chồng.

b) “Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung” là sự đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, công việc gia đình và lao động của vợ, chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Người vợ hoặc chồng ở nhà chăm sóc con, gia đình mà không đi làm được tính là lao động có thu nhập tương đương với thu nhập của chồng hoặc vợ đi làm. Bên có công sức đóng góp nhiều hơn sẽ được chia nhiều hơn.

c) “Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập” là việc chia tài sản chung của vợ chồng phải bảo đảm cho vợ, chồng đang hoạt động nghề nghiệp được tiếp tục hành nghề; cho vợ, chồng đang hoạt động sản xuất, kinh doanh được tiếp tục được sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản chênh lệch. Việc bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và hoạt động nghề nghiệp không được ảnh hưởng đến điều kiện sống tối thiểu của vợ, chồng và con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự.

Ví dụ: Vợ chồng có tài sản chung là một chiếc ô tô người chồng đang chạy xe taxi trị giá 400 triệu đồng và một cửa hàng tạp hóa người vợ đang kinh doanh trị giá 200 triệu đồng. Khi giải quyết ly hôn và chia tài sản chung, Tòa án phải xem xét giao cửa hàng tạp hóa cho người vợ, giao xe ô tô cho người chồng để họ tiếp tục kinh doanh, tạo thu nhập. Người chồng nhận được phần giá trị tài sản lớn hơn phải thanh toán cho người vợ phần giá trị là 100 triệu đồng.

d) “Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng” là lỗi của vợ hoặc chồng vi phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của vợ chồng dẫn đến ly hôn.

Ví dụ: Trường hợp người chồng có hành vi bạo lực gia đình, không chung thủy hoặc phá tán tài sản thì khi giải quyết ly hôn Tòa án phải xem xét yếu tố lỗi của người chồng khi chia tài sản chung của vợ chồng để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của vợ và con chưa thành niên.

5. Giá trị tài sản chung của vợ chồng, tài sản riêng của vợ, chồng được xác định theo giá thị trường tại thời điểm giải quyết sơ thẩm vụ việc.

6. Khi giải quyết chia tài sản khi ly hôn, Tòa án phải xem xét để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Ví dụ: Khi chia nhà ở là tài sản chung và là chỗ ở duy nhất của vợ chồng, trong trường hợp không chia được bằng hiện vật thì Tòa án xem xét và quyết định cho người vợ hoặc chồng trực tiếp nuôi con chưa thành niên, con bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự nhận hiện vật và thanh toán giá trị tương ứng với phần tài sản được chia cho người chồng hoặc vợ nếu người vợ hoặc chồng có yêu cầu.”

Như vậy công sức đóng góp chỉ là một phần căn cứ để xem xét phân xử tài sản. Cụ thể hơn anh có thể áp dụng nguyên tắc giải quyết trên để biết các căn cứ Tòa án sẽ xem xét khi phân xử về tài sản khi ly hôn.

Trên đây là nội dung tư vấn về: Vấn đề giành quyền nuôi con và chia tài sản khi ly hôn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận luật sư tư vấn pháp luật Hôn nhân gia đình để được giải đáp.

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

0971.166.169