Tư vấn về vấn đề xử lý vật chứng trong vụ án hình sự.
Câu hỏi: Lời đầu tiên em xin gửi lời chào, lời chúc sức khỏe đến công ty luật Minh Gia! Em có một vấn đề thắc mắc liên quan đến luật tố tụng hình sự mong nhận được sự giúp đỡ của quý công ty, cụ thể: Trong các vụ việc (chưa khởi tố vụ án) có liên quan đến tiền mặt (trộm cắp tài sản, cướp, cưỡng đoạt,...) sau khi thu giữ số tiền sẽ được cơ quan điều tra xử lý như thế nào? Trong trường hợp cơ quan điều tra tiến hành gửi số tiền đã thu giữ vào kho bạc nhà nước để bảo quản theo quy định (Chưa khởi tố vụ án) và có giấy nộp tiền thì khi khởi tố vụ án có phải nhập vật chứng đối với tờ giấy nộp tiền hay không? Trong trường hợp cơ quan điều tra tiến hành khởi tố vụ án nhưng không tìm thấy bị hại, chủ sở hữu hợp pháp của số tiền đã thu giữ thì số tiền này phải xử lý như thế nào? Rất mong nhận được sự giúp đỡ của quý công ty, em xin chân thành cám ơn !
Trả lời: Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi yêu cầu tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia. Với yêu cầu của bạn, chúng tôi xin được tư vấn như sau:
Thứ nhất, Cơ quan điều tra sẽ xử lý số tiền do phạm các tội cướp tài sản, trộm cắp tài sản... như thế nào trong quá trình điều tra.
Số tiền do phạm các tội cướp tài sản, trộm cắp hay cưỡng đoạt tài sản được xem vật chứng theo quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
Việc xử lý vật chứng theo quy định tại điều 106, Bộ luật tố tụng hình sự 2015:
“Điều 106. Xử lý vật chứng
1. Việc xử lý vật chứng do Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra quyết định nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn điều tra; do Viện kiểm sát quyết định nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn truy tố; do Chánh án Tòa án quyết định nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn chuẩn bị xét xử; do Hội đồng xét xử quyết định nếu vụ án đã đưa ra xét xử. Việc thi hành quyết định về xử lý vật chứng phải được ghi vào biên bản.
2. Vật chứng được xử lý như sau:
a) Vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm tàng trữ, lưu hành thì bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước hoặc tiêu hủy;
b) Vật chứng là tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có thì bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước;
c) Vật chứng không có giá trị hoặc không sử dụng được thì bị tịch thu và tiêu hủy.
3. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan, người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều này có quyền:
a) Trả lại ngay tài sản đã thu giữ, tạm giữ nhưng không phải là vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp tài sản đó;
b) Trả lại ngay vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp nếu xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án;
c) Vật chứng thuộc loại mau hỏng hoặc khó bảo quản thì có thể được bán theo quy định của pháp luật; trường hợp không bán được thì tiêu hủy;
d) Vật chứng là động vật hoang dã và thực vật ngoại lai thì ngay sau khi có kết luận giám định phải giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.
4. Trường hợp có tranh chấp về quyền sở hữu đối với vật chứng thì giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.”
Theo quy định trên, số tiền do phạm các tội trộm cắp tài sản, cướp hay cưỡng đoạt tài sản mà có thì cơ quan điều tra sẽ tạm giữ vật chứng để phục vụ cho hoạt động điều tra. Theo đó, số tiền đó sẽ được giữ để phục vụ điều tra vụ án, thì sau khi kết thúc thời hạn điều tra hoặc không cần thiết giữ để điều tra thêm thì cơ quan công an sẽ trả lại cho chủ sở hữu. Còn trong trường hợp nếu xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án thì vật chứng là số tiền sẽ được lập tức trả lại cho chủ sở hữu.
Thứ hai, giấy nộp tiền vào kho bạc nhà nước là căn cứ để xác định một chủ thể đã nộp tiền tại kho bạc nhà nước. Vật chứng trong vụ án hình sự cũng như vậy, nếu là tiền khi nộp vào kho bạc nhà nước buộc phải có giấy nộp tiền. Đó là một loại giấy tờ nằm trong hồ sơ khởi tố của Viện kiểm sát và là minh chứng cho việc bảo quản vật chứng trong trường hợp này.
Thứ ba, vấn đề xử lý vật chứng trong trường hợp cơ quan điều tra không tìm thấy người bị hại hoặc chủ sở hữu.
Theo quy định tại điều 228 Bộ luật dân sự 2015:
“Điều 228. Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu:
Sau 01 năm, kể từ ngày thông báo công khai mà không xác định được ai là chủ sở hữu tài sản là động sản thì quyền sở hữu đối với động sản đó thuộc về người phát hiện tài sản.
Sau 05 năm, kể từ ngày thông báo công khai mà không xác định được ai là chủ sở hữu tài sản là bất động sản thì bất động sản đó thuộc về Nhà nước; người phát hiện được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật.”
Theo đó, trường hợp số tiền bị thu giữ mà không tìm được chủ sở hữu thì nếu sau 1 năm kể từ ngày thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng mà vẫn không xác định được chủ sở hữu thì số tiền đó sẽ được sung quỹ nhà nước.
Phòng Luật sư tư vấn Hình sự - Công ty Luật Minh Gia.
Trân trọng.
Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất