Nguyễn Thị Tuyết Nhung

Tư vấn về trách nhiệm trả nợ khi đã ly hôn.

Luật sư tư vấn về trường hợp vợ vay tiền trong thời kỳ hôn nhân nay đã ly hôn và mất khả năng trả thì người chồng có phải trả không. Nội dung tư vấn như sau:

Nội dung tư vấn: Xin chào! Cho tôi hỏi, tôi có cho 1 người quen mượn 50 triệu vnđ, có ghi giấy mượn tiền, thời gian trả nhưng nay quá hẹn, người này nói mất khả năng trả nợ. Theo tôi biết thì tài sản chị này bán hết rồi, và chị này bị đuổi việc luôn, chồng thì nói ly hôn rồi nhưng tôi không biết chính xác là đã ly hôn chưa. Khi mượn nợ chồng không biết. Vậy nếu tôi làm đơn khởi kiện ra tòa thì tòa có buộc chị này trả nợ cho tôi không? Có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không? Và chồng chị này có trách nhiệm trả nợ thay chị này không? Vì lúc mượn tiền khoảng thời gian đó họ chưa ly hôn. Xin luật sư tư vấn giúp. Trân thành cảm ơn.

Trả lời: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đến Công ty Luật Minh Gia. Với vấn đề của bạn, chúng tôi xin đưa ra tư vấn như sau:

Thứ nhất, về việc khởi kiện ra tòa án.

Theo khoản 1 điều 466 Bộ luật dân sự 2015 quy định:

Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

Giữa bạn và người quen có hợp đồng vay tài sản với số tiền 50 triệu, trong đó có quy định thời hạn trả nhưng đã quá hạn mà người này không trả, không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. Do đó, bạn có thể gửi đơn khởi kiện ra Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người đó cư trú yêu cầu người đó phải thực hiện nghĩa vụ như trong hợp đồng vay tiền.

Thứ hai, về việc truy cứu trách nhiệm hình sự.

Điều 175 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau:

“Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật hình sự, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;

b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

...”

Theo thông tin bạn cung cấp, hai bên có ký hợp đồng vay số tiền 50 triệu đồng nhưng hiện tại, đã quá hạn trả tiền nhưng người vay không trả và thông báo đã mất khả năng thanh toán. Ngoài ra, người này đã bán hết tài sản và đã ly hôn với chồng, người chồng không biết về khoản nợ này. Với những thông tin mà bạn cung cấp, chúng tôi chưa khẳng định được người này có bị truy cứu TNHS về Tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hay không. Cơ quan điều tra cần làm rõ hành vi và mục đích của người vay tiền, nếu như có một trong các dấu hiệu nêu trên thì có thể truy cứu TNHS.

Thứ ba, về trách nhiệm trả nợ của người chồng.

Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về Trách nhiệm liên đới của vợ, chồng như sau:

1. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện quy định tại khoản 1 Điều 30 hoặc giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện tại các điều 24, 25 và 26 của Luật này.

2. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ quy định tại Điều 37 của Luật này.

Theo quy định trên, người chồng sẽ phải liên đới chịu trách nhiệm trả nợ cho người vợ trong trường hợp việc người vợ vay tiền nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình (điều 27); người vợ có sự ủy quyền, đồng ý của người chồng về việc người vợ đại diện giao dịch vay tiền (điều 24) và đại diện vay tiền phục vụ hoạt động kinh doanh (điều 25) hoặc các nghĩa vụ tại điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.

Thòi điểm người vợ vay tiền hai vợ chồng vẫn chưa ly hôn, người chồng hoàn toàn không biết về khoản nợ này. Do đó, cần làm rõ mục đích vay tiền của người vợ, nếu như người vợ vay tiền nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì người chồng có nghĩa vụ liên đới trả nợ. Tuy nhiên, nếu như người vợ vay tiền không nhằm phục vụ nhu cầu thiết yếu của gia đình thì đây xác định là khoản nợ riêng của người vợ, người chồng sẽ không có nghĩa vụ liên đới trả nợ. 

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Đặt câu hỏi tư vấn
Chat zalo