Trách nhiệm khi mua bán tài sản do phạm tội mà có như nào?
Nội dung tư vấn: Luật sư cho e hỏi là chồng e làm nghề buôn bán, sửa chữa điện thoại. Mấy hôm trước có mua 1 chiếc điện thoại asus giá 2,1 triệu của 1 thanh niên cũng đã đi tù về, nhưng không biết đó là đồ ăn cắp.
Sau đó người mất biết là điện thoại đó ở quán nhà em và đã báo công an, công an có gọi chồng em ra lấy lời khai và thu giữ chiếc điện thoại đó, Cái người bán cho chồng em có khai là họ chỉ đi bán hộ còn người khác lấy cắp.
Xin luật sư cho em hỏi trong trường hợp này chồng em có bị làm sao không ạ? và phải xử lý như nào ạ?
Trả lời: Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi đề nghị tư vấn đến cho Công ty Luật Minh Gia. Về vấn đề của bạn, Luật Minh Gia xin được giải đáp như sau:
Điều 117 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự như sau:
“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.”
Do tài sản mà các bên giao dịch là tài sản phạm tội mà có, do đó trong trường hợp này giao dịch được xác định là vi phạm điều cấm của pháp luật và vô hợp đồng mua bán vô hiệu, theo đó, các bên phải trả lại cho nhau những gì đã nhận.
Đồng thời, theo quy định thì điện thoại là loại tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu, do đó trong trường hợp này người tham gia giao dịch khó có thể biết được tài sản đó có nguồn gốc từ đâu. Trong trường hợp chồng của bạn hoàn toàn không biết điện thoại là do trộm cắp mà có thì chồng bạn có quyền yêu cầu người đã bán điện thoại cho mình trả lại số tiền đã nhận. Nếu người đó không trả bạn có quyền khởi kiện ra tòa án yêu cầu tòa giải quyết.
Trong trường hợp chồng bạn biết rõ tài sản là do trộm cắp mà vẫn chấp nhận mua bán, tiêu thụ chiếc điện thoại này thì có thể cấu thành tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo quy định tại Điều 323 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017:
“1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tài sản, vật phạm pháp trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng;
d) Thu lợi bất chính từ 20.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng;
đ) Tái phạm nguy hiểm….”
Trân trọng
Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất