Người bị tuyên bố là đã chết, mất tích trở về, giải quyết về hôn nhân và tài sản thế nào?
Tôi được biết, trong thời gian tôi đi làm xa thì vợ tôi đã đề nghị Tòa án tuyên bố tôi đã chết và xin được ly hôn với tôi. Vậy quan hệ giữa tôi và vợ sẽ giải quyết như thế nào? Căn nhà của tôi có lấy lại được không? Tôi xin cảm ơn.
Trả lời: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia, trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:
Trường hợp của bạn đi biệt tích và đã bị tòa án tuyên bố chết nay bạn trở về có thể yêu cầu tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố bạn đã chết căn cứ theo quy định tại Điều 73 Bộ luật dân sự 2015. Điều 73 quy định như sau:
“1. Khi một người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết.
2. Quan hệ nhân thân của người bị tuyên bố là đã chết được khôi phục khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết, trừ trường hợp sau đây:
a) Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã được Tòa án cho ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 68 của Bộ luật này thì quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật;
b) Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã kết hôn với người khác thì việc kết hôn đó vẫn có hiệu lực pháp luật.
3. Người bị tuyên bố là đã chết mà còn sống có quyền yêu cầu những người đã nhận tài sản thừa kế trả lại tài sản, giá trị tài sản hiện còn.
Trường hợp người thừa kế của người bị tuyên bố là đã chết biết người này còn sống mà cố tình giấu giếm nhằm hưởng thừa kế thì người đó phải hoàn trả toàn bộ tài sản đã nhận, kể cả hoa lợi, lợi tức; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.
4. Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng được giải quyết theo quy định của Bộ luật này, Luật hôn nhân và gia đình.
5. Quyết định của Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết phải được gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người bị tuyên bố là đã chết để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch.”
Đồng thời, về quan hệ hôn nhân, theo quy định tại Điều 67 Luật hôn nhân và gia đình 2014 có quy định: “1. Khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ tuyên bố một người là đã chết mà vợ hoặc chồng của người đó chưa kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được khôi phục kể từ thời điểm kết hôn. Trong trường hợp có quyết định cho ly hôn của Tòa án theo quy định tại khoản 2 Điều 56 của Luật này thì quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật. Trong trường hợp vợ, chồng của người đó đã kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được xác lập sau có hiệu lực pháp luật.”
Như vậy trường hợp của bạn khi tòa tuyên bố đã chết thì theo quy định của pháp luật quan hệ hôn nhân với vợ bạn bị chấm dứt, theo đó vợ bạn có thể di lấy chồng khác. Khi bạn quay trở về thì vợ bạn đã kết hôn với người khác do đó, quan hệ hôn nhân giữa bạn và vợ bạn không được khôi phục mà quan hệ hôn nhân giữa vợ bạn với người chồng hiện tại được công nhận.
Về ngôi nhà của bạn, theo khoản 3 Điều 73 nêu trên thì bạn có quyền yêu cầu những người đã nhận tài sản thừa kế của bạn trả lại tài sản, giá trị tài sản hiện còn.
- Tư vấn chia tài sản khi một bên trong quan hệ hôn nhân chết
Kính chào luật sư, tôi có nội dung này liên quan đến đất đai mong luật sư giải đáp: Gia đình ông A có hai người con là anh B và chị C. Năm 1998 gia đình ông A được cấp giấy chứng nhận QSDĐ 1000m2 đất thổ cư và đất vườn. Vì tuổi cao không đi vay vốn được, năm 2001 ông A đứng ra chuyển tên bìa đỏ cho con trai là anh B toàn bộ diện tích 1000m2 nói trên. Không may năm 2007 anh B bị mất không để lại di chúc.
Gia đình anh B có vợ và hai người con. Nay ông A đứng ra đòi lại một nửa diện tích đất nói trên nhưng vợ anh B không đồng ý cho rằng chồng chị mất để lại mảnh đất đứng tên anh B là thừa kế chị được hưởng. Xin luật sư tư vấn? Liệu ông A có đòi lại được đất hay không? Quy định thế nào xin được tư vấn. Xin trân trọng cám ơn!
Tư vấn: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đến Luật Minh Gia, chúng tôi tư vấn cho trường hợp của bạn như sau:
Do anh B mất không để lại di chúc thì di sản sẽ được chia theo pháp luật, cụ thể tại Điều 651 Bộ luật dân sự 2015 quy định:
“Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”
Trường hợp 1:
Nếu ông A tặng cho riêng quyền sử dụng đất cho anh B và anh B không nhập Quyền sử dụng đất này vào tài sản chung của vợ chồng thì đây được xác định là tài sản riêng của anh B theo quy định tại Điều 43 Luật Hôn nhân và gia đình 2014:
“Điều 43. Tài sản riêng của vợ, chồng
1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.
2. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này.”.
Khi đó, ông A và vợ con của anh B cùng hàng thừa kế với nhau nên di sản sẽ được chia đều cho tất cả người cùng hàng thừa kế.
Trường hợp 2:
Ông A tặng cho cả hai vợ chồng anh B quyền sử dụng đất hoặc anh B được tặng riêng nhưng đã nhập mảnh đất vào tài sản chung của vợ chồng. Lúc này mảnh đất được xác định là tài sản chung của hai vợ chồng theo Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014:
“Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.”
Do vậy, theo quy định trên, khi Quyền sử dụng đất xác định là tài sản chung thì khi anh B chết tài sản sẽ được chia đôi cho vợ chồng. Như vậy ½ phần tài sản thuộc về vợ anh A, ½ phần còn lại sẽ được chia đều cho hàng thừa kế thứ nhất theo quy định Điều 651 Bộ luật dân sự 2015. Vì thế, việc ông A đòi lại ½ phần diện tích đất là không có căn cứ pháp luật.
Trân trọng.
Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất