Lò Thị Loan

Định đoạt tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

Tài sản đã tặng cho người khác thì có thể đòi lại được không? Trường hợp tài sản đó thuộc sở hữu chung vợ chồng nhưng chỉ do một bên định đoạt thì giải quyết như thế nào?

Câu hỏi: Xin chào luật sư Minh Gia, tôi xin phép luật sư tư vấn giúp tôi về trường hợp như sau: Một người (có vợ và hai con) làm giám đốc một công ty TNHH. Trong quá trình kinh doanh cần phải vay tiền ngân hàng nên có nhiều chứng từ người vợ cùng ký thế chấp vay mượn. Vừa rồi người chồng có lấy tiền chuyển vào tài khoản của một người khác để người này mua biệt thự nhưng không đứng tên người nhận tiền mà đứng tên bố người đó. Xin hỏi luật sư có cách gì lấy lại ngôi biệt thự đó không hoặc yêu cầu người nhận tiền trả lại khoản tiền trên hay không? 
Xin cảm ơn!

Trả lời: Chào bạn, với trường hợp của bạn, chúng tôi xin tư vấn như sau:

Thứ nhất, nếu quan hệ hôn nhân và gia đình xác lập trước ngày 01/01/2015 thì:

Trường hợp thứ nhất: Khoản tiền mà người chồng tặng cho thông qua việc chuyển khoản cho người khác thuộc tài sản chung của vợ chồng.

Căn cứ Điều 28 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000:
"1. Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.

2. Tài sản chung của vợ chồng được chi dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng.

3. Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận, trừ tài sản chung đã được chia để đầu tư kinh doanh riêng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 của Luật này."

Đồng thời căn cứ Khoản 4 Điều 4 Nghị định 70/2001/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2000:
"
4. Trong trường hợp vợ hoặc chồng xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này mà không có sự đồng ý của một bên, thì bên đó có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu theo quy định tại Điều 139 của Bộ luật Dân sự và hậu quả pháp lý được giải quyết theo quy định tại Điều 146 của Bộ luật Dân sự."

Trường hợp này, việc định đoạt tài sản chung phải do vợ chồng thỏa thuận tuy nhiên người chồng đã tự ý định đoạt tài sản chung có giá trị lớn của vợ chồng mà không có sự đồng ý của người vợ như vậy người vợ có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu. Hậu quả pháp lý được giải quyết theo Điều 146 Bộ luật dân sự năm 2005, theo đó chỉ có thể đòi lại phần tài sản của người vợ trong số tài sản đem cho (cụ thể là 1/2 giá trị tài sản đó)

"1. Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường hợp người được đại diện đồng ý hoặc biết mà không phản đối; nếu không được sự đồng ý thì người đại diện phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình về phần giao dịch vượt quá phạm vi đại diện."

Trường hợp thứ hai: Khoản tiền mà người chồng tặng cho thông qua tài khoản ngân hàng thuộc tài sản riêng của người chồng thì trong trường hợp này hợp đồng tặng cho đã có hiệu lực nên không thể đòi lại số tiền đó.

Thứ hai, nếu quan hệ hôn nhân và gia đình xác lập kể từ ngày 01/01/2015 trở đi.

Căn cứ Khoản 1 Điều 32 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014:
"1. Trong giao dịch với người thứ ba ngay tình thì vợ, chồng là người đứng tên tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán được coi là người có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó."

Trường hợp người nhận khoản tiền là ngay tình (tức là người nhận không hề biết khoản tiền này là tài sản chung hay tài sản riêng của người chồng) thì không thể đòi lại khoản tiền đã tặng cho. Trong trường hợp người nhận không ngay tình thì phải trả lại khoản tiền này.


Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Định đoạt tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến bộ phận luật sư tư vấn trực tuyến - Số điện thoại liên hệ 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng


CV: Nguyễn Ngọc - Công ty Luật Minh Gia.

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

0971.166.169