LS Hoài My

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi NLĐ làm mất tài sản của công ty?

Trong quá trình làm việc, đôi khi vì thiếu cẩn thận mà NLĐ làm hư hỏng tài sản hoặc làm mất tài sản của doanh nghiệp. Dù là sơ suất và không ai mong muốn hậu quả xảy ra, nhưng NLĐ vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà mình gây ra.

Vậy pháp luật quy định như nào về vấn đề NLĐ phải bồi thường thiệt hại cho doanh nghiệp? Doanh nghiệp có được phép giữ lương của NLĐ để khấu trừ vào tiền bồi thường thiệt hại không? Để nắm rõ được các quy định pháp luật, bạn hãy gửi câu hỏi tư vấn đến Luật Minh Gia hoặc Gọi: 1900.6169, chúng tôi sẽ hỗ trợ cho bạn.

Ngoài ra, bạn có thể tham khảo thêm thông qua tình huống mà Luật Minh Gia tư vấn sau đấy:

Câu hỏi tư vấn: Nhờ luật Minh Gia tư vấn giúp về việc bồi thường của người LĐ như sau: Tôi đi làm thủ kho nhưng không có ký kết hợp đồng lao động, làm tăng ca và chủ nhật không có thêm trợ cấp. Bởi vậy làm được 2 tháng 16 ngày tôi xin nghỉ. Trước khi nghỉ có kiểm kê lại tài sản trong kho, sau khi tôi nghỉ 4-5 ngày sau công ty gọi điện thông báo kho thiếu hụt và yêu cầu bồi thường và không trả lương tháng cuối cho tôi (trước đó 1 tháng đã kiểm kê 1 lần và không có thiếu hụt hàng hóa). Hàng hóa công ty để cả bên ngoài chứ không để hết hoàn toàn trong kho của tôi. Vậy mong luật Minh Gia tư vấn cho tôi để giải quyết vấn đề này. 

Trả lời tư vấn: Cảm ơn bạn tin tưởng và gửi lời đề nghị tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia. Với thắc mắc của bạn, chúng tôi xin tư vấn như sau:

Khoản 6 Điều 3 Bộ luật Lao động 2012 quy định: “Quan hệ lao động là quan hệ  xã hội phát sinh trong việc thuê mướn, sử dụng lao động, trả lương giữa người lao động và người sử dụng lao động”. Theo thông tin bạn cung cấp, bạn đã làm việc cho công ty được hơn 2 tháng, giữa bạn và công ty đã phát sinh quan hệ lao động, tuy nhiên 2 bên lại không ký hợp đồng lao động.

Như vậy, mặc dù bạn không được công ty ký hợp đồng lao động nhưng khi bạn nghỉ việc, tức chấm dứt hợp đồng lao động bạn vẫn phải tuân thủ quy định pháp luật về chấm dứt hợp đồng lao động.

Điều 37 Bộ luật Lao động 2012 quy định Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động:

“1. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn trong những trường hợp sau đây:

a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;

b) Không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;

c) Bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động;

d) Bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động;

đ) Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước;

e) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền;

g) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 90 ngày liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và một phần tư thời hạn hợp đồng đối với người làm việc theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục.

2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 1 Điều này, người lao động phải báo cho người sử dụng lao động biết trước:

a) Ít nhất 3 ngày làm việc đối với các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và g khoản 1 Điều này;

b) Ít nhất 30 ngày nếu là hợp đồng lao động xác định thời hạn; ít nhất 03 ngày làm việc nếu là hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng đối với các trường hợp quy định tại điểm d và điểm đ khoản 1 Điều này;

c) Đối với trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều này thời hạn báo trước cho người sử dụng lao động được thực hiện theo thời hạn quy định tại Điều 156 của Bộ luật này.

3. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng phải báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày, trừ trường hợp quy định tại Điều 156 của Bộ luật này”.

Theo quy định pháp luật nêu trên, người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động khi có căn cứ chấm dứt hợp đồng lao động theo khoản 1 Điều 37 và khi chấm dứt hợp đồng lao động, người lao động phải báo trước cho người sử dụng lao động biết trước 30 ngày đối với loại hợp đồng xác định thời hạn hoặc 45 ngày đối với loại hợp đồng không xác định thời hạn.

Theo thông tin bạn cung cấp, bạn nghỉ việc do công ty không ký hợp đồng và không tính tiền lương làm thêm giờ. Lý do bạn nghỉ việc đưa ra không thuộc một trong các lý do để người lao động được phép đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, tức bạn đã đơn phương chấm dứt hợp đồng trái luật.

Khi bạn đơn phương chấm dứt hợp đồng trái luật, bạn có trách nhiệm bồi thường cho công ty nửa tháng tiền lương, ngoài ra nếu bạn vi phạm thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho công ty một khoản tiền tương ứng với tiền lương của bạn trong những ngày không báo trước.

Vấn đề công ty không trả tiền lương làm thêm giờ cho bạn, theo quy định pháp luật công ty có trách nhiệm phải trả đầy đủ lương, đúng thời hạn trả lương theo hợp đồng, nếu công ty không trả đủ lương tức công ty đang vi phạm quy định pháp luật. Vì vậy, bạn có quyền làm đơn khiếu nại gửi công ty hoặc Phòng LĐ-TBXH để giải quyết chế độ tiền lương của mình.

Đối với bồi thường thiệt hại, Điều 139 Bộ luật Lao động 2012 quy định:

“1. Người lao động làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị hoặc có hành vi khác gây thiệt hại tài sản của người sử dụng lao động thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Trường hợp người lao động gây thiệt hại không nghiêm trọng do sơ suất với giá trị không quá 10 tháng lương tối thiểu vùng do Chính phủ công bố được áp dụng tại nơi người lao động làm việc, thì người lao động phải bồi thường nhiều nhất là 03 tháng tiền lương và bị khấu trừ hằng tháng vào lương theo quy định tại khoản 3 Điều 101 của Bộ luật này.

2. Người lao động làm mất dụng cụ, thiết bị, tài sản của người sử dụng lao động hoặc tài sản khác do người sử dụng lao động giao hoặc tiêu hao vật tư quá định mức cho phép thì phải bồi thường thiệt hại một phần hoặc toàn bộ theo thời giá thị trường; trường hợp có hợp đồng trách nhiệm thì phải bồi thường theo hợp đồng trách nhiệm; trường hợp do thiên tai, hoả hoạn, địch họa, dịch bệnh, thảm họa, sự kiện xảy ra khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép thì không phải bồi thường”.

Theo đó, nếu như công ty có đầy đủ căn cứ xác định bạn làm thiệt hại hoặc làm mất tài sản công ty thì bạn có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho công ty.

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo