LS Vũ Thảo

Khởi kiện nhân viên vi phạm hợp đồng

Luật sư tư vấn về trường hợp công ty khởi kiện nhân viên vi phạm hợp đồng

 

Kính gửi quý công ty, Tôi là Giám đốc công ty bảo vệ, tôi có việc trình bầy với quý công ty như sau:Công ty của chúng tôi là công ty bảo vệ có đầy đủ giấy DKKD và giấy đủ điều kiện hoạt động an ninh trật tự do Cục quản lý hành chính C64 cấp. Chúng tôi có trông giữ một bãi xe theo hơp đồng ký với khách hàng.Chúng tôi bố trí nhân viên bảo vệ trông giữ bãi xe theo hợp đồng cung cấp dịch vụ bảo vệ với khách hàng với nhiệm vụ như sau:

1- Xe có vé tháng của chủ bãi xe thì cho phép vào bãi xe và trông giữ đảm bảo tài sản cho chủ xe

2- xe không có vé tháng thì tiên hành thu vé lượt theo quy định của chủ bãi xe, nhưng nhân viên bảo vệ đã tự ý ký HĐ giữa cá nhân của nhân viên đó  và  chủ xe (tổng cộng 20 xe oto) thời gian kéo dài khoảng 1 năm.đến nay khi chúng tôi phát hiên thì nhân viên bảo vệ đó bỏ việc tổng số tiền nhân viên đó trục lơi là 20 xe x 1 triệu/xe/tháng. Hàng tháng là 20 triệu đồng tôi xin hỏi bên quý công ty luật, nếu chúng tôi muốn truy tố nhân viên đó để làm gương và răn đe các nhân viên bảo vệ khác thì thủ tục như thế nào và có đảm bảo khởi kiện được nhân viên đó không?

Rất mong quý công ty hướng dẫn trong việc khởi kiện nhân viên trên. Xin cảm ơn!

 

Trả lời tư vấn: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi về cho công ty Luật Minh Gia. Về vấn đề của bạn, chúng tôi tư vấn như sau:

 

Trong trường hợp này, nhân viên bảo vệ đã có hành vi trục lợi trái phép (tự do ký kết hợp đồng với chủ bãi xe để thu lợi nhuận riêng) làm ảnh hưởng đến uy tín và gây thiệt hai cho công ty cung ứng dịch vụ bảo vệ. Vì thế, nhân viên phải bồi thường thiệt hại cho công ty theo quy định tại Điều 584 Bộ luật dân sự 2015 về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

 

“1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.

 

2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.

 

3. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này.”

 

Về nguyên tắc bồi thường, tại Điều 585 Bộ luật dân sự 2015 quy định:

 

“1. Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

 

2. Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.

 

3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.

 

4. Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.

 

5. Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình.”

 

Ngoài ra, quý công ty có quyền yêu cầu Cơ quan Công an xem xét và làm rõ dấu hiệu cấu thành Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với các dấu hiệu cấu thành tội phạm như sau:

 

Về mặt chủ thể, nhân viên có đầy đủ năng lực pháp luật và chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật định.

 

Về mặt khách thể, đây là hành vi xâm phạm đến nhóm quyền xâm phạm sở hữu của con người mà Bộ luật hình sự đang bảo vệ theo quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009

 

Về mặt chủ quan, nhân viên đã vi phạm lỗi cố ý đã để lại hậu quả. Cụ thể, tình tiết trong tình huống trên cho thấy, rõ ràng hành vi ấy đã mang về số tiền trị giá 20 triệu đồng mà Công ty không hề hay biết. Cá nhân đã trục lợi độc lập, lợi dụng uy tín của công ty để gian dối trong quá trình trông giữa xe, làm ảnh hưởng đến uy tín và lợi ích liên quan của công ty.

 

Về mặt khách quan, nhân viên đã trực tiếp dung hành vi của mình (ký kết hợp đồng với chủ bãi xe). Hành vi khách quan này hoàn toàn có sự kiểm soát  ý thức và có sự điều khiển ý chí cuả họ, không ai ràng buộc hay áp đặt. Hành vi này trái với quy định và thỏa thuận trong hợp đồng với Công ty cung ứng dịch vụ.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn hỏi và quan tâm. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ cần luật sư giải đáp, bạn vui lòng gọi đến Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến của chúng tôi - Số điện thoại liên hệ: 1900.6169 để được hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng !
CV tư vấn: Trần T Lan Anh - Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo