LS Ngọc Anh

Công ty chấm dứt HĐLĐ trái luật thì người lao động có quyền lợi gì?

Luật sư tư vấn về trường hợp Người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật với người lao động thì trách nhiệm bồi thường như thế nào? Cụ thể như sau:

 

Nội dung yêu cầu tư vấn: Em xin chào Luật sư:em có vấn đề nhờ luật sư giúp em tư vấn ah. ngày 03/12/2017 em và công ty A có tranh chấp về chấm dứt hợp đồng trái pháp luật và em đã kiện ra tòa án nhân dân huyện nơi em ở, trong suốt quá trình hòa giải hai bên không đàm phán được, đến ngày 23/05/2017 tòa án đưa vụ án ra xét xử tòa tuyên án cty A bồi thường vi phạm cho em như sau: 1. Vi phạm thời gian báo trước của Điều 38 và 42 là 01 tháng lương = 9.600.000 đồng; 2. Bồi thường theo điều 42 vi phạm chấm dứt hợp đồng trái pháp luật là 02 tháng lương: 19.200.000 đồng; 3. Bồi thường vi phạm chấm dứt hợp đồng trái pháp luật Điều 49 trợ cấp mất việc 02 tháng lương là :19.200.000 đồng; 4. Trợ cấp thêm Điều 48 khoàn 1 thêm 1/2 tháng lương là: 4.800.000 đồng; 5. Bồi thường thời gian từ khi ra quyết định chấm dứt hợp đồng trái pháp luật đến khi kết thúc phiên tòa xét xử la 5 tháng 20 ngày: 55.385.000 đồng; 6. Bồi thường bảo hiểm thất nghiệp 3 tháng là: 14.537.000 đồng. Tổng cộng mức bồi thường là: 122.722.000 đồng, nhưng công ty A kháng án không chấp nhận bồi thường. Như vậy cho em xin hỏi:

- Tòa án phán quyết mức bồi thường cho em như thế có hợp pháp chưa?

- nếu tiếp tục đưa ra tòa xét xử em có tiếp tục được hưởng thêm tiền lương khi chưa kết thúc phiên tòa không? (vì hiện tại xem như phiên tòa chưa kết thúc).

- thời gian tranh chấp lao động cho phép thời gian bao lâu? Nếu kéo dài vụ án có bị hủy bỏ không?

Em rất mong Luật sư giúp em tư vấn, và các khoản bồi thường về chấm dứt trái pháp luật những điều nào ah. Xin cảm ơn!  

 

Trả lời tư vấn: Cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến Luật Minh Gia, về câu hỏi của bạn, chúng tôi tư vấn như sau:

 

- Thứ nhất, tòa án phán quyết mức bồi thường cho em như thế có hợp pháp chưa?

 

Tòa án phán quyết mức bồi thường cho bạn còn vài điểm chưa hợp lý như sau:

 

+ Khoản thứ ba (trợ cấp mất việc làm theo Điều 49) và Khoản thứ 4 (trợ cấp thôi việc theo Điều 48).

 

Điều 48 và Điều 49 Bộ luật lao động 2012 (BLLĐ) quy định như sau:

 

“Điều 48. Trợ cấp thôi việc

 

1. Khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 5, 6, 7, 9 và 10 Điều 36 của Bộ luật này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương.

Điều 49. Trợ cấp mất việc làm

 

1. Người sử dụng lao động trả trợ cấp mất việc làm cho người lao động đã làm việc thường xuyên cho mình từ 12 tháng trở lên mà bị mất việc làm theo quy định tại Điều 44 và Điều 45 của Bộ luật này, mỗi năm làm việc trả 01 tháng tiền lương nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương.

…”

Như vậy, trợ cấp thôi việc hoặc trợ cấp mất việc làm đều đặt ra khi hai bên chấm dứt HĐLĐ. Do vậy, khi người sử dụng lao động chấm dứt HĐLĐ thì tùy từng trường hợp người lao động sẽ được hưởng một trong hai khoản trợ cấp thôi việc hoặc trợ cấp mất việc làm.

 

Những trường hợp được coi là mất việc làm theo Điều 44 (trường hợp thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế) và Điều 45 (sáp nhập, hợp nhất, chia, tách doanh nghiệp, hợp tác xã).

 

Do thông tin cung cấp không đề cập về việc công ty bạn cho bạn nghỉ việc theo trường hợp nào (chấm dứt HĐLĐ theo Điều 36, 38 BLLĐ hay cho thôi việc theo Điều 44, 45 BLLĐ) nên chúng tôi không xác định cụ thể được bạn sẽ được khoản trợ cấp nào.

 

Tuy nhiên, thông tin cung cấp rằng Tòa án tuyên buộc công ty trả cho bạn cả hai khoản trên là không phù hợp.

 

+ Khoản thứ 6 Bồi thường bảo hiểm thất nghiệp 3 tháng là: 14.537.000 đồng

 

Trường hợp này cần phải xác định khoản này có phải là khoản trợ cấp thất nghiệp hay không?

 

- Thứ hai, nếu tiếp tục đưa ra tòa xét xử thì quyền lợi của bạn có tăng thêm không?

 

Theo Khoản 1 Điều 42 BLLĐ 2012 quy định:

 

“1. Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết và phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày người lao động không được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.”

 

Theo quy định trên thì khi Công ty chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật thì phải trả tiền lương, BHXH, BHYT trong những ngày bạn không được làm việc. Tuy nhiên, bạn không đề cập đến HĐLĐ giữa bạn và công ty là HĐ xác định thời hạn hay không xác định thời hạn, nên có hai trường hợp sau:

 

+ TH1: HĐLĐ ký kết là HĐLĐ xác định thời hạn

 

Trường hợp này cần phải xác định thời điểm hết hạn HĐ là khi nào? Nếu như hết hạn trước khi xét xử phúc thẩm (vì có kháng cáo nên Tòa phúc thẩm sẽ xét xử) thì Công ty chỉ phải trả tiền lương, tiền BHXH, BHYT đến thời điểm HĐLĐ hết hạn.

 

Trường hợp hết hạn sau khi có bản án phúc thẩm thì Công ty phải trả tiền lương, tiền BHXH, BHYT đến thời điểm giải quyết xong vụ án tranh chấp này.

 

+ TH2: HĐLĐ ký kết là HĐLĐ không xác định thời hạn

 

Trường hợp này thì Công ty phải trả tiền lương, tiền BHXH, BHYT đến thời điểm giải quyết xong vụ án tranh chấp này.

 

- Thứ ba, thời gian tranh chấp lao động cho phép thời gian bao lâu?

 

Tính từ thời gian công ty A kháng cáo cho đến hết thời gian có bán án phúc thẩm được tính như sau.

 

Thời gian mở phiên tòa phúc thẩm tính từ ngày công ty A kháng cáo theo quy định tại Điều 286 Bộ luật tố tụng dân sự 2015

 

“1. Trong thời hạn 02 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án, tùy từng trường hợp, Tòa án cấp phúc thẩm ra một trong các quyết định sau đây:

 

a) Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án;

 

b) Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án;

 

c) Đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.

 

Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án cấp phúc thẩm có thể quyết định kéo dài thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không được quá 01 tháng.

 

2. Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa phúc thẩm; trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 02 tháng.”

 

Như vậy, trong thời hạn tối đa là 03 tháng Tòa án phải ra một trong các quyết định trên. Trường hợp ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm thì trong thời hạn tối đa là 02 tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa phúc thẩm.

 

- Thứ tư, nếu vụ án kéo dài có bị hủy bỏ không?

 

Theo phân tích ở phần thứ ba thì Tòa án phải thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Chứ không có đề cập đến vụ án bị hủy bỏ do thời gian giải quyết lâu.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn hỏi và quan tâm. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ cần luật sư giải đáp, bạn vui lòng gọi đến Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến của chúng tôi - Số điện thoại liên hệ: 1900.6169 để được hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng !

CV tư vấn: Trần Thị Ánh Nguyệt - Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo