LS Hoài My

Áp dụng xử lý kỷ luật buộc thôi việc với nhân viên ký hợp đồng theo NĐ 68/2000/NĐ-CP

Luật sư tư vấn về vấn đề: Nhân viên làm việc ký hợp đồng theo NĐ 68/2000/NĐ-CP tự ý nghỉ việc không có lý do chính đáng thì cơ quan xử lý kỷ luật buộc thôi việc có được không? Trình tự xử lý như thế nào?

Nội dung tư vấn: Xin hỏi Luật sư, tại trường tôi có một nhân viên phục vụ theo NĐ 68 đã tự ý nghỉ việc từ ngày 01.8.2019 đến nay là 30 ngày. Nhà trường có liên lạc nhưng nhân viên này không nghe máy, nhắn tin qua gmail và qua số điện thoại cá nhân cũng không trả lời. Chỉ nhắn lại là có gửi đơn xin thôi việc nhưng nhà trường không nhận được. Nhân viên này còn vay của liên đoàn lao động huyện số tiền là 15 triệu đồng qua bảo lãnh là công đoàn nhà trường, nhưng chưa trả. Vậy xin hỏi nhà trường xử lý kỷ luật giáo viên đó bằng hình thức thôi việc có đúng không, và trình tự xử lý kỷ luật đó như thế nào? Đối với số tiền vay thì giải quyết như thế nào? Kính mong luật sư tư vấn giúp đỡ! Chân thành cảm ơn. 

 

Trả lời: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đến Công ty Luật Minh Gia. Với câu hỏi của bạn, chúng tôi xin tư vấn như sau:

 

Theo thông tin cung cấp người lao động được ký hợp đồng lao động làm việc tại cơ quan nhà nước theo Nghị định 68/2000. Do đó, khi chấm dứt hợp đồng lao động phải đảm bảo điều kiện theo Điều 37 Bộ luật lao động 2012 quy định về Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động:

 

“1. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn trong những trường hợp sau đây:

 

a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;

 

b) Không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;

 

c) Bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động;

 

d) Bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động;

 

đ) Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước;

 

e) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền;

 

g) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 90 ngày liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và một phần tư thời hạn hợp đồng đối với người làm việc theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục.

 

2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 1 Điều này, người lao động phải báo cho người sử dụng lao động biết trước:

 

a) Ít nhất 3 ngày làm việc đối với các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và g khoản 1 Điều này;

 

b) Ít nhất 30 ngày nếu là hợp đồng lao động xác định thời hạn; ít nhất 03 ngày làm việc nếu là hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng đối với các trường hợp quy định tại điểm d và điểm đ khoản 1 Điều này;

 

c) Đối với trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều này thời hạn báo trước cho người sử dụng lao động được thực hiện theo thời hạn quy định tại Điều 156 của Bộ luật này.

 

3. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng phải báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày, trừ trường hợp quy định tại Điều 156 của Bộ luật này”.

 

Theo đó, trường hợp người lao động tại đơn vị bạn làm đơn xin thôi việc mà có một trong các căn cứ nêu tại khoản 1 Điều 37 và đáp ứng thời gian thông báo trước theo khoản 2 Điều 37 nêu trên thì được coi là đơn phương chấm dứt hợp đồng đúng luật. Ngược lại, nếu không có một trong các lý do nghỉ việc nêu trên thì người lao động có trách nhiệm phải bồi thường cho đơn vị bạn một nửa tháng tiền lương và nếu vi phạm về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho đơn vị bạn một khoản tiền lương tương ứng với số ngày không thông báo trước theo quy định tại Điều 43 Bộ luật Lao động 2012.

 

Điều 43 Nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật:

 

"1. Không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.

 

2. Nếu vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người sử dụng lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước".

 

Còn trường hợp, nếu đơn vị bạn muốn cho người lao động nghỉ việc theo hình thức kỷ luật sa thải thì cần có căn cứ theo khoản 3 Điều 126 Bộ luật Lao động 2012:"Người lao động tự ý bỏ việc 05 ngày cộng dồn trong 01 tháng hoặc 20 ngày cộng dồn trong 01 năm mà không có lý do chính đáng".

 

Tuy nhiên, theo thông tin bạn cung cấp, người lao động đã làm đơn xin nghỉ việc. Cho thấy, người lao động đã thể hiện ý chí về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Do đó, không đủ căn cứ để xác định người lao động tự ý bỏ việc 5 ngày cộng dồn trong tháng để tiến hành xử lý kỷ luật sa thải theo quy định pháp luật. Như vậy, trong trường hợp này đơn vị có thể yêu cầu người lao động quay về để giải quyết nghĩa vụ phát sinh do việc đơn phương chấm dứt hợp đồng của họ theo quy định pháp luật.

 

Thứ hai, người lao động còn vay của liên đoàn lao động huyện số tiền là 15 triệu đồng qua bảo lãnh là công đoàn nhà trường nhưng chưa trả.

 

Điều 335 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về Bảo lãnh: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”.

 

Và khoản 1 Điều 343 quy định: “Trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ đó”.

 

Theo thông tin bạn cung cấp, nhà trường đứng ra bảo lãnh cho người lao động vay khoản tiền nên khi người lao động đó không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì bên bảo lãnh (nhà trường) có trách nhiệm phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho bên được bảo lãnh (người lao động). Sau đó, nhà trường sẽ yêu cầu người lao động hoàn trả số tiền đó cho nhà trường.

 

Trân trọng!

Phòng Luật sư tư vấn Lao động-Công ty Luật Minh Gia.

 

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Đặt câu hỏi tư vấn
Chat zalo