Hoàng Thị Nhàn

Trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn

Thưa Luật sư cho tôi hỏi về việc sống chung với nhau như vợ chồng nhưng không tiến hành đăng ký như sau,Vợ chồng chúng tôi lấy nhau được 6 năm, có với nhau 2 đưa con, được hai bên cha mẹ, họ hàng và cơ quan tổ chức cưới hỏi đàng hoàng, nhưng chưa đi đăng ký kết hôn. Trong thời gian chung sống với nhau chúng tôi có mua được một căn hộ mang tên 2 vợ chồng.

Với lý do chưa đăng ký kết hôn, anh đã có nhân tình ngoài luồng và nhiều lý do như tình yêu đã chết và về đòi đuổi mẹ con tôi ra khỏi nhà để anh khóa lại và đòi phải đưa giấy tờ đi làm lại mang tên một mình anh! mẹ con tôi đi đâu anh không hề quan tâm.Nếu tôi không làm anh đe dọa đủ đường! vì muốn yên bình và sĩ diện trước bạn bè tôi đồng ý đưa giấy tờ cho anh mang tên một mình nhưng việc đuổi mẹ con tôi ra khỏi nhà để anh xây dựng hạnh phúc mới thì thật quá đỗi bất công!  Xin luật sư tư vấn và trợ giúp tôi và các cháu trong lúc gặp phải người chồng như thế này thì luật pháp giải quyết như thế nào?.Xin chân thành cám ơn luật sư trợ giúp.

Trả lời: Cảm ơn chị đã tin tưởng và gửi yêu cầu tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia, về vấn đề này chúng tôi tư vấn như sau:

Điều 16 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn:

"1. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

2. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập".

Bộ Luật Dân sự 2015 quy định về chiếm hữu tài sản chung: "Các chủ sở hữu chung cùng quản lý tài sản chung theo nguyên tắc nhất trí, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác".

Quy định về sử dụng tài sản chung:

"1. Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.

2. Các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền ngang nhau trong việc khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản chung, nếu không có thoả thuận khác".

Quy định về chia tài sản thuộc hình thức sở hữu chung:

"1. Trong trường hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung; nếu các chủ sở hữu chung đã thoả thuận không phân chia tài sản chung trong một thời hạn thì mỗi chủ sở hữu chung chỉ có quyền yêu cầu chia tài sản chung khi hết thời hạn đó; khi tài sản chung không thể chia được bằng hiện vật thì được trị giá thành tiền để chia...."

Theo chị trình bày, hai anh chị chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn nên không được pháp luật bảo vệ. Trường hợp người chồng chung sống hoặc kết hôn với người khác không trái quy định của pháp luật, nên hành vi trên không phải chịu trách nhiệm pháp lý.

Mặc dù không đăng ký kết hôn, nếu hai bên nam nữ chung sống như vợ chồng mà tạo lập khối tài sản chung thì việc chia tài sản được thực hiện theo thỏa thuận hoặc theo quy định pháp luật. 

Vậy, trường hợp có căn cứ chứng minh khối tài sản là nhà, đất được hình thành từ tiền chung của các bên trong quá trình chung sống với nhau thì dù đứng tên một mình chồng thì chị vẫn có quyền yêu cầu chia khối tài sản này.Việc giải quyết quan hệ tài sản khi chia phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con. Chị lưu ý rằng công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung cũng được coi như lao động có thu nhập.

Điều 15 Luật HN và GĐ 2014 quy định về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn: "Quyền, nghĩa vụ giữa nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng và con được giải quyết theo quy định của Luật này về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con".

Điều 81 Luật HN và GĐ 2014 quy định về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn:

"1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con".

Chiểu theo quy định trên, trường hợp hai bên không đăng ký kết hôn mà có con chung thì cả hai buộc phải thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng các con. Nếu không tiếp tục chung sống với nhau thì người chồng hoặc người vợ không trực tiếp nuôi dưỡng con có trách nhiệm cấp dưỡng cho con để đảm bảo cuộc sống của con.

Vậy, để giải quyết vấn đề trên thì chị cần làm đơn gửi trực tiếp tới TAND quận, huyện nơi chồng cư trú, làm việc để yêu cầu tuyên: "không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật"; đồng thời yêu cầu chia con con, thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của người chồng đối với con và giải quyết tranh chấp tài sản chung (trường hợp các bên không tự nguyện thỏa thuận).

Trên đây là nội dung tư vấn về: Trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ Tổng đài tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình để được giải đáp.

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Đặt câu hỏi tư vấn
Chat zalo