Luật sư Vũ Đức Thịnh

Quyền lợi của mỗi bên nam nữ khi chấm dứt việc chung sống như vợ chồng

Thưa luật sư cho em hỏi. Em với chồng sống chung năm 2013 đến nay có 1 đứa con chung hiện tại cháu đã được nhập vào hộ khẩu nhà ngoại. Nay gia đình chồng em muốn nuôi dưỡng cháu nếu sau này vợ chồng em không sống chung nữa em có quyền nuôi cháu không?

Nay chồng em muốn mua đất cất nhà cho em ở nhưng người đứng tên đất và nhà là của chồng em, vậy nếu vợ chồng em không ở với nhau nữa ngôi nhà và đất em có được chia không? Hiện nay vợ chồng em đang sống chung chồng em có quyền cưới vợ không. Nếu chồng em ra tòa ly hôn em không đồng ý thì luật pháp có công nhận chúng em không phải là vợ chồng nữa không? Xin luật sư giải đáp giúp em. Xin cảm ơn luật sư !

Trả lời tư vấn: Cảm ơn chị đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia, trường hợp của chị, thông tin chị cung cấp không rõ ràng về việc anh chị có đăng ký kết hôn hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam hay không. Vì vậy, chúng tôi sẽ tư vấn chung như sau:

Theo quy định tại Nghị quyết 35/2000/NQ-HĐTP thì “Đối với trường hợp nam và nữ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 01/01/2001 trở đi mà không đăng ký kết hôn, thì theo quy định họ không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu một trong các bên hoặc cả hai bên có yêu cầu ly hôn, thì Toà án thụ lý vụ án để giải quyết và áp dụng pháp luật hôn nhân và gia đình tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng; nếu họ có yêu cầu về nuôi con và chia tài sản, thì Toà án áp dụng Luật hôn nhân và gia đình để giải quyết theo thủ tục chung.” 

Như vậy, theo quy định trên, trường hợp anh chị không có đăng ký kết hôn hợp pháp thì pháp luật sẽ không công nhận là vợ chồng. Tuy nhiên, nếu có yêu cầu về việc ly hôn, chia tài sản chung, quyền nuôi con thì Tòa án sẽ thụ lý giải quyết theo quy định của pháp luật hiện hành và sẽ tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng. Cụ thể:

- Thứ nhất, về xử lý tài sản chung

Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định:

“Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng

1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân,…

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

…”

Ngoài ra, tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình quy định:

“Điều 59. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn

2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:

a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;

b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

…”

Như vậy, về phần tài sản của anh chị sẽ được xác định và phân chia theo quy định trên. Trường hợp của chị, chồng chị có mua và đứng tên một giấy chứng nhận QSD đất và nhà ở. Theo quy định trên, nếu chồng chị không chứng minh được: (1) tài sản đó được tặng cho, thừa kế riêng trong quá trình chung sống, hoặc (2) số tiền dùng để mua tài sản đó là có được trước khi chung sống hoặc được tặng cho riêng trong quá trình chung sống thì tài sản đó sẽ được xác định là tài sản chung và sẽ chia theo nguyên tắc trên.

- Thứ hai, về quyền nuôi con

Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định:

“Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn



2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”

Theo đó, quyền nuôi con sẽ căn cứ quy định trên để giải quyết. Vì chị không cung cấp cụ thể về độ tuổi của con, do đó, chị có thể đối chiếu trường hợp của mình với các quy định trên để áp dụng. Và người không trực tiếp nuôi con sẽ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

- Thứ ba, việc đăng ký kết hôn với vợ/chồng mới

+ Trường hợp anh chị chưa đăng ký kết hôn thì theo phân tích ở trên thì pháp luật Việt Nam chưa công nhận anh chị là vợ chồng. Vì vậy, việc kết hôn với người khác không vi phạm điều cấm theo quy định tại Khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình.

+ Trường hợp anh chị đã có đăng ký kết hôn, thì việc kết hôn với người mới trong khi quan hệ hôn nhân của anh chị hiện tại chưa chấm dứt là trái với quy định của pháp luật. Do đó, không được phép kết hôn trong trường hợp này.

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Đặt câu hỏi tư vấn
Chat zalo