Luật sư Nguyễn Mạnh Tuấn

Luật sư tư vấn thủ tục ly hôn vắng mặt khi vợ bỏ đi

Khi mục đích của hôn nhân không đạt được, pháp luật cho phép vợ chồng hoặc một bên vợ, chồng yêu cầu ly hôn. Vợ, chồng muốn ly hôn phải thực hiện thủ tục ly hôn tại Tòa án có thẩm quyền. Song song với giải quyết ly hôn, vợ chồng có thể yêu cầu Tòa án giải quyết hoặc tự thỏa thuận các vấn đề về tài sản chung, nghĩa vụ chung, quyền trực tiếp nuôi con, ...và các vấn đề khác liên quan.

Câu hỏi: Chào luật sư, em có một số câu hỏi muốn nhờ luật sư tư vấn giùm em về việc ly hôn khi vợ bỏ đi như sau: Em và vợ em đã cưới nhau được 4 năm và đã có một đứa con gái 2 tuổi, nhưng cuộc sống gia đình thì không hạnh phúc và vợ em đã bỏ lại bố con em được gần 1 năm và không biết đi đâu, nay em muốn làm đơn ly hôn đơnn phương em có thể làm được không? Mong luật sư tư vấn giùm em, em xin cảm ơn.

Trả lời từ Luật sư: Công ty Luật Minh gia trả lời câu hỏi của bạn như sau:

Thứ nhất, về Quyền yêu cầu ly hôn:

Theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được…”

Như vậy, trong trường hợp của bạn, bạn có quyền yêu cầu tòa giải quyết việc ly hôn của hai vợ chồng.

Thứ hai, về Căn cứ ly hôn:

Khoản 1, Điều 56 Luật hôn nhân gia đình 2014 quy định nếu “vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”. Vợ chồng bạn kết hôn nhưng vợ bạn đã bỏ nhà đi hơn 3 năm cho đến thời điểm hiện tại chưa về, như vậy là thời gian ly thân của vợ chồng bạn tương ứng với số thời gian vợ bạn bỏ đi.

Như vậy, theo quy định điều luật ở trên tình trạng hôn nhân của vợ chồng bạn là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được là một trong những căn cứ để Tòa án quyết định cho ly hôn. Vì vậy, bạn đơn phương xin ly hôn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết cho ly hôn.

Thứ ba, về Thẩm quyền giải quyết vụ án ly hôn:

Theo quy định tại Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án ly hôn là tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc. Nơi cư trú của cá nhân là nơi cá nhân thường xuyên sinh sống hoặc đang sinh sống.

Do vậy, để được Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, bên nguyên đơn chứng minh được nơi bị đơn thường xuyên sinh sống hoặc đang sinh sống, hoặc nơi người này làm việc. Nếu thấy bị đơn thay đổi địa chỉ, không còn cư trú hoặc làm việc tại địa phương nữa mà thực tế đang cư trú hoặc làm việc tại địa phương khác, tòa án đang thụ lý sẽ chuyển vụ án cho tòa án nơi bị đơn đang cư trú hoặc làm việc để tiếp tục giải quyết vụ án.

Do vậy, trong trường hợp cụ thể của bạn thì tòa án nơi bạn đang ở không thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa.Tòa án nơi cư trú của bị đơn (nơi cư trú của vợ bạn) mới có thẩm quyền giải quyết. Tuy nhiên, do bạn không biết rõ nơi cư trú của vợ bạn ở đâu nên rất khó xác định thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Nếu bạn nộp đơn xin ly hôn tại Tòa án nơi bạn đang cư trú, Tòa sẽ không thụ lý giải quyết và trả lại đơn theo quy định tại Điểm b, Khoản 1, Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong vụ án ly hôn được giải quyết nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật thì nghĩa vụ chứng minh, chứng cứ thuộc về các đương sự.

Vì vậy, bạn nên tìm kiếm nơi cư trú của vợ bạn và cung cấp thông tin cho Tòa án để giải quyết việc ly hôn được nhanh chóng, nếu trong quá trình tìm kiếm không đạt kết quả bạn có thể làm đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố mất tích, sau đó yêu cầu tòa án giải quyết cho ly hôn theo Khoản 2 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Khoản 2 Điều 56 quy định: “Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.”

- Nhờ tư vấn, giải đáp về thủ tục ly hôn khi vợ bỏ đi

Câu hỏi: Tôi lấy vợ tháng 4 năm 2012. Tới tháng 12 năm 2012 thi có con trai đầu lòng. Tháng 3 năm 2015 thì có đứa con gái thứ hai. Không may là cháu thứ hai lại bị bệnh não úng thủy. Do vợ tôi không có bảo hiểm và sinh mổ và con bị bệnh nên phải đi bệnh viện nhi trung ương suốt nên kinh tế gia đình gặp nhiều khó khăn. Do con ốm đau luôn và cháu thứ hai vẫn chưa biết ngồi nên hơn một năm qua vợ tôi không đi làm. Mọi việc trong gia đình cũng như chi phí khám chữa bệnh cho con đều một mình tôi lo liệu. Tới 14 tháng 5 năm 2016 vừa qua thì vợ tôi bắt đầu đi làm. Đi làm tới ngày 24 tháng 5 năm 2016 thì vợ tôi bỏ mặc hai đứa con để đi về nhà bố mẹ đẻ. Mặc dù đứa thứ hai bị bệnh như thế và hiện nay cháu chưa biết ngồi. Nên tôi phải bỏ việc về trông con. Nay vợ tôi đã bỏ đi được hơn một tháng tôi đã nhiều lần gọi điện và nhắn tin vợ tôi về nhưng vợ tôi không trở về. Giờ gọi điện vợ tôi cũng không nghe máy. Khi đi vợ cầm hết tiền và cầm cả điện thoại của tôi đi. Tôi muốn hỏi vợ tôi đi khỏi nhà bao nhiêu lâu thì tôi được quyền ly hôn đơn phương. Tôi muốn nuôi cả hai đứa con liệu có được không bởi vì đứa thứ hai phải đi viện suốt và khi vợ tôi bỏ đi tôi có gọi điện cho vợ tôi về để đưa cháu đi viện thì vợ tôi cũng không về và không hỏi han gì. Thủ tục ly hôn trường hợp tôi như thế nào. Tôi xin chân thành cám ơn!

Trả lời: Chào bạn, cảm ơn anh đã gửi yêu cầu tư vấn tới công ty Luật Minh Gia, chúng tôi xin tư vấn cho trường hợp của anh như sau:

Thứ nhất, về quyền ly hôn đơn phương khi vợ bỏ đi 

Điều 51 Luật hôn nhân gia đình 2014 quy định về quyền ly hôn, cụ thể:  

1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.

3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

Theo đó, thì anh có quyền đơn phương yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn không phụ thuộc và thời gian vợ anh bỏ đi.

Thứ hai, về thủ tục ly hôn

1. Hồ sơ xin ly hôn đơn phương gồm:
- Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn (bản chính);
- Chứng minh nhân dân của vợ và chồng (bản sao có chứng thực);
- Giấy khai sinh của các con (bản sao có chứng thực);
- Sổ hộ khẩu gia đình (bản sao có chứng thực);
- Đơn xin ly hôn (Theo mẫu) .
2. Nơi nộp hồ sơ :  Tòa án nhân dân quận, huyện nơi thường trú của bị đơn (nơi thường trú của vợ). 
3. Thời gian giải quyết: thời hạn chuẩn bị xét xử là 4 tháng, kể từ ngày tòa án thụ lý vụ án. nếu vụ án có tính chất phức tạp hoặc có trở ngại khách quan thì được gia hạn nhưng không quá 02 tháng.
Trong thời hạn 01 tháng kế từ ngày ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa; trong trường hợp có lý do chính đáng, thời hạn này là 02 tháng. Trong thực tế, thời gian giải quyết vụ án ly hôn có thể ngắn hơn hoặc kéo dài hơn thời gian mà luật qui định tùy thuộc vào tính chất của từng vụ án .

Thứ ba, về việc xác định quyền nuôi con sau khi ly hôn:

Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:

“1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.

Như vậy, hai con của anh một cháu 4 tuổi, một cháu 15 tháng, việc xác định quyền nuôi con sau khi ly hôn phụ thuộc vào thỏa thuận của hai vợ chồng và điều kiện kinh tế, độ tuổi của các con và các yếu tố tinh thần nhất định. Cụ thể như sau:

- Đối với cháu 15 tháng tuổi thuộc trường hợp con dưới 36 tháng tuổi, theo khoản 3, Điều 81, Luật HNGĐ 2014: “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”. Theo quy định trên, về nguyên tắc, con dưới 36 tháng tuổi được giao cho người mẹ trực tiếp nuôi. Với những thông tin mà anh cung cấp có thể thấy điều kiện về vật chất của anh có nhiều thuân lợi hơn để giành quyền nuôi con. Tuy nhiên, do con của anh chị dưới 36 tháng tuổi nên cần xem xét vợ anh có thuộc trường hợp không đủ điều kiện để “trực tiếp” trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng con không, các điều kiện có thể xem xét là:

+ Điều kiện về vật chất bao gồm: Ăn, ở, sinh hoạt, điều kiện học tập…các yếu tố đó dựa trên thu nhập, tài sản, chỗ ở của cha mẹ;

+ Các yếu tố về tinh thần bao gồm: Thời gian chăm sóc, dạy dỗ, giáo dục con, tình cảm đã dành cho con từ trước đến nay, điều kiện cho con vui chơi giải trí, nhân cách đạo đức, trình độ học vấn … của cha mẹ.

- Đối với cháu 4 tuổi:

Nếu hai vợ chồng thỏa thuận được ai là người trực tiếp nuôi con, đồng thời thỏa thuận này đảm bảo quyền và lợi ích tốt nhất cho con thì Tòa án tôn trọng thỏa thuận này.

Nếu hai vợ chồng không thỏa thuận được ai là người trực tiếp nuôi con thì Tòa án sẽ quyết định, dựa trên các điều kiện vật chất và các yếu tố tinh thần nêu trên để có quyết định cuối cùng.

Như vậy, nếu anh muốn nuôi cả hai cháu thì trước hết cần gặp và thỏa thuận với vợ anh. Nếu như vợ anh đồng ý, anh có đủ khả năng nuôi dưỡng các con và đối với cháu dưới 36 tháng tuổi thì việc anh nuôi con là phù hợp với lợi ích của con thì Tòa án sẽ tôn trọng thỏa thuận đó.

Nếu như không thỏa thuận được thì để được nuôi hai cháu, khi ra Tòa anh cần chứng minh mình đủ điều kiện về vật chất, tinh thần để nuôi dưỡng các con còn vợ anh không đủ điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc các con, ngoài ra anh có thể viện dẫn việc vợ anh bỏ về nhà bố mẹ đẻ, khi anh gọi điện cho vợ về để đưa con đi viện thì vợ anh cũng không về và không hỏi han gì…để Tòa án xem xét quyết định việc có cho anh nuôi con không.

Trân trọng!

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Đặt câu hỏi tư vấn
Chat zalo