Vũ Thanh Thủy

Xác lập quyền sở hữu đối với nữ trang được tặng cho trong hôn nhân

Từ xưa đến nay, khi tổ chức hôn lễ, vợ chồng thường được nhận tặng, cho tài sản từ hai bên gia đình hoặc bạn bè dưới hình thức là quà cưới, sính lễ, của hồi môn, thách cưới, .... Những tài sản này thường là trang sức nên không đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng nên các cặp vợ chồng thường xảy ra tranh chấp khi xác định về quyền sở hữu chung hay riêng đối với những tài sản này. Dưới đây là một số nội dung tư vấn của Công ty Luật Minh gia về vấn đề xác lập quyền sở hữu đối với nữ trang được tặng cho trong hôn nhân.

Nội dung đề nghị tư vấn: Thưa luật sư, vợ chồng tôi mới cưới nhau 5 tháng, vàng cả 2 gia đình tặng sau khi kết hôn đã bán nhưng còn để lại 1 số nữ trang của mẹ tôi tặng cho tôi  và số tiền vàng bán được đã gửi vào tài khoản anh ta đứng tên,trong thời gian qua chúng tôi có những mâu thuẫn nên đã cãi nhau và anh ta đã ra tay đánh tôi và còn sỉ nhục tôi lần này đến lần khác, gia đình đã nhắc nhở nhiều lần nhưng không thay đổi, bây giờ tôi không còn tình cảm và không thể tiếp tục sống chung được nữa.Luật sư cho tôi được hỏi, bây giờ số tiền trong tài khoản của anh ta có được coi là tài sản chung không? Khi ra tòa người ta có xử lí và chia cho tôi không?Nữ trang của mẹ tôi tặng tôi khi hôn nhân có phải là tài sản riêng của tôi không? Xin cảm ơn luật sư và nhờ luật sư giải đáp.

Nội dung tư vấn: Cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi tới Công ty Luật Minh Gia, với tình huống của bạn chúng tôi xin được tư vấn như sau:

Thứ nhất, xác định tài sản chung hay tài sản riêng:

Luật hôn nhân và gia đình 2014 chỉ quy định về việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn mà không có chế định về việc yêu cầu một bên trả lại tiền sính lễ hay chi phí cưới hỏi.

Đối với tình huống của bạn thì cần phải xác định ý chí của người tặng cho tài sản tại thời điểm đó nên sẽ xảy ra 2 trường hợp:

Trường hợp 1: Người tặng cho số tài sản trên xác định tặng cho riêng vợ hoặc chồng:

Theo Điều 43 Luật HNGĐ 2014 thì “Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng, tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.”

Thời điểm bạn được cha mẹ hai bên cho tiền, vàng trong ngày cưới nếu những người này xác định tặng cho riêng bạn hoặc chồng bạn thì đối chiếu theo quy định trên, xác định là tài sản được tặng cho riêng của các bên. 

Đồng thời, Điều 59 Luật này quy định về nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn như sau: 

"[...] 4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.

Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác."

Trường hợp 2: Người tặng cho số tài sản trên xác định tặng cho chung của hai vợ chồng:

Khoản 1, Điều 33, Luật Hôn nhân và gia đình 2014  quy định: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.”

Tại thời điểm tặng cho số tài sản trên mà người tặng cho có nói rõ là tặng cho hai vợ chồng bạn và có những người xung quanh làm chứng thì đây được xác định là tài sản chung của vợ, chồng.  Theo quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn sẽ được chia đôi, nhưng có tính đến các yếu tố: 

a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;

b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.

Thứ hai, về việc chồng bạn bán số vàng sau khi kết hôn:

Nếu trong trường hợp bạn chứng minh được trong số vàng mà chồng bạn bán có số vàng là tài sản riêng của bạn, được tặng cho riêng thì bạn hoàn toàn có căn cứ yêu cầu chồng phải trả lại cho bạn số vàng đó.

Ngược lại nếu số vàng đó được xác định là tài sản chung của hai vợ chồng thì số tiền bán số vàng đó cũng được coi là tài sản chung và sẽ được chia theo quy định của pháp luật.

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo