Hoàng Tuấn Anh

Tư vấn về vi phạm Luật giao thông dẫn tới thiệt hại về tính mạng con người

Luật sư tư vấn về mức hình phạt đối việc vi phạm quy định của Luật giao thông dẫn tới thiệt hại tính mạng con người, cũng như trường hợp gia đình người bị hại rút đơn xin khởi tố


Câu hỏi tư vấn:

Tôi có người em bà con năm nay 24 tuổi , vừa rồi em ấy đi xe máy cùng 1 người  bạn trên đường đi lúc đó vào buổi tối có lẻ do chạy nhanh nên không tránh kịp nên đã đụng vào 1 người trong nhóm 3 người đang dừng xe bên lề gây thiệt hại đến tính mạng , và người đi chung xe với em tôi cũng té văn ra vì vết thương quá nặng nên cũng qua đời , bên gia đình em tôi đã đến viếng và chia sẽ với gia đình người mất , gia đình em tôi đã phụ một số tiền với gia đình , và bên gia đình đó đã nhận 40 triệu , nhưng rồi ý định của gia đình đó là nếu bên gia đình em tôi  chịu bồi thường với mức là 120 triệu thì gia đình đó sẽ không kiện và nói em tôi  sẽ không phải chịu án , như vậy có đúng không, vì em tôi không có bằng  lái xe , còn phần gia đình bên người đi chung với em tôi thì hoàn toàn không truy cứu vì nghi đó là số phận , bạn bè đi chơi chung , theo luật sư thì mức bồi thường như vậy thì có hợp lý và em tôi có phải chịu mức phạt gì nữa không.
 

Nội dung tư vấn: Chào bạn, cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đến cho chúng tôi, với câu hỏi của bạn, tôi xin được tư vấn như sau:

-  Thứ nhất về mức hình phạt:

Em của bạn đã vi phạm quy định giao thông, gây thiệt hại đến tính mạng người khác, đã cấu thành tội phạm và có thể bị xét xử theo điều 260 bộ luật hình sự về Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ:


Điều 260. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

 

1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

 

a) Làm chết người;

 

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

 

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

 

d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.


Theo khoản 1 Điều 3 của Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC

 

Hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ của người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ quy định tại khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự được hiểu là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy tắc giao thông đường bộ và hành vi này phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả về tính mạng, sức khỏe và tài sản.

 

Căn cứ theo quy định trên, hành vi vi phạm Luật giao thông dẫn đến thiệt hại về tính mạng con người của em bạn có thể bị áp dụng hình phạt tù từ 6 tháng đến năm năm.

 

Ngoài ra, em bạn sẽ còn phải bồi thường thiệt hại cho gia đình người kia theo quy định tại khoản 1 Điều 604 Bộ luật dân sự: “Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.”

Nguyên tắc bồi thường thiệt hại theo điều 584 Bộ luật dân sự 2015:

 

Điều 584. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại

 

1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.

 

2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.

 

3. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này.

 

Điều 591. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm

 

1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:

 

a) Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật này;

 

b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;

 

c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng;

 

d) Thiệt hại khác do luật quy định.

 

2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tính mạng của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.


Như vậy, mức bồi thường, hình thức, cách thức bồi thường sẽ được quết định căn cứ vào thực tế và thỏa thuận giữa các bên.



- Thứ hai: Việc gia đình người bị hại rút đơn khởi kiện để em bạn không phải chịu án có hợp lý hay không
 

Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 có quy định về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại như sau:


Điều 155. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại

 

1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.

 

2. Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.

 

3. Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.

 

Như vậy, chỉ có những tội được quy định ở trên thì khi có đơn yêu cầu của người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại vụ án hình sự mới được khởi tố, còn với  đối với những tội danh khác, dù người bị hại có rút đơn kiện thì với hậu quả gây ra, vụ án hình sự vẫn được khởi tố xét xử. Như vậy, trong trường hợp này, dù gia đình người bị hại có rút đơn khởi tố, em bạn vẫn phải chịu án phạt theo quy định của Luật.

 

Trân trọng!

Phòng luật sư tư vấn - Công ty Luật Minh gia 

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo