Lại Thị Nhật Lệ

Tư vấn về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

Gia đình tôi bị kẻ trộm vào nhà và đã lấy đi vàng, hột xoàn, ít tiền mặt (tổng giá trị khoảng 200 triệu đồng). Sau đó, cơ quan Công an đã bắt được kẻ trộm, trong quá trình điều tra, tên trộm đã khai bán một số vàng cho một tiệm vàng khoảng 19 triệu đồng (giá trị thực tế số vàng mang đi bán khoảng 180 triệu đồng) và bán trước một ngày trước khi bị bắt. Cơ quan công an đã tiến hành lập biên bản và thu giữ số vàng bị tên trộm bán tại tiệm vàng, nhưng tiệm vàng đã kịp nấu chảy vàng ra (hột xoàn đính

 

Cơ quan công an đã mời gia đình tôi lên nhận lại những tài sản (đồng hồ, tiền mặt, nhẫn hột xoàn...) mà tên trộm chưa kịp tiêu thụ; còn vàng và hột xoàn mà tiệm vàng đã thu mua thì chờ giám định lại. Trong thời gian chờ cơ quan công an giám định lại số tài còn lại, thì điều tra viên có điện thoại cho gia đình nói là có thể chỉ nhận lại được hột xoàn, còn vàng thì phải chịu mất.

Vậy cho tôi hỏi trong trường hợp này bên tiệm vàng có cấu thành tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có không? Gia đình tôi trong trường hợp này phải xử lý như thế nào, chúng tôi có cần phải khởi kiện không? XIn lưu ý, tất cả tài sản nữ trang chúng tôi còn đầy đủ tất cả hóa đơn chứng từ, giấy kiểm định hột xoàn khi mua và tiệm vàng này là tiệm vàng lớn. Tôi xin chân thành cám ơn các Luật sư giúp tôi tư vấn.

 

Trả lời: Cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi tư vấn đến công ty Luật Minh Gia. Chúng tôi tư vấn cho bạn như sau:

 

Căn cứ theo Điều 323 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 quy định về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có:

 

“Điều 323. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

 

1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

 

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

 

a) Có tổ chức;

 

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

 

c) Tài sản, vật phạm pháp trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng;

 

d) Thu lợi bất chính từ 20.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng;

 

đ) Tái phạm nguy hiểm.

...”

 

Như vậy, theo quy định nêu trên chỉ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội này trong trường hợp biết rõ tài sản mà mình tiêu thụ là tài sản do phạm tội mà có. Để xác định chính xác người tiêu thụ vàng do ăn trộm mà có có bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay không cần phải căn cứ vào kết luận của cơ quan điều tra. Nếu người tiêu thụ vàng có đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thì người này sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự không phụ thuộc và việc gia đình bạn có yêu cầu khởi tố vụ án hay không vì tội này không thuộc các trường hợp chỉ khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại theo Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015:

 

“Điều 155. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại

 

1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.

...”

 

Trong trường hợp người nhận mua vàng và hột xoàn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có sẽ phải giao tài sản là "tang vật" phạm tội cho cơ quan điều tra, cơ quan điều tra sẽ có trách nhiệm trả lại cho gia đình bạn. Nếu tài sản không còn nguyên trạng hoặc đã bị tiêu hủy một phần thì gia đình bạn có quyền người này phải có trách nhiệm bồi thường bằng tiền với giá trị tương đương.

 

Trường hợp chủ tiệm vàng không biết được đó là tài sản do phạm tội có được thì việc tiêu thụ chỉ là 1 giao dịch dân sự thông thường, sau khi biết tài sản đó là tài sản phạm tội có được thì giao dịch dân sự này sẽ bị vô hiệu và các bên có nghĩa vụ trả lại cho nhau những gì đã nhận (Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015). Chủ tiệm vàng sẽ phải có trách nhiệm trả lại số vàng và người ăn trộm sẽ phải hoàn lại số tiền đã nhận cho tiệm vàng.

 

Căn cứ theo Điều 167 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định về Quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình, như sau:

 

“Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản; trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu.”

 

Như vậy, nếu chủ tiềm vàng không đồng ý trả lại tài sản hoặc không trả lại số số vàng đã sử dụng thì gia đình bạn có quyền khởi kiện ra Tòa án dân sự yêu cầu giải quyết.

 

Trân trọng!

Cv: Vũ Nga - Luật Minh Gia. 

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo