Luật sư Nguyễn Mạnh Tuấn

Tư vấn về tội phạm

Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý.


Và tội phạm là hình vi xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. 

 

I. Đặc điểm của tội phạm.


1. Tính nguy hiểm cho xã hội: 


- Gây nguy hiểm cho lợi ích của giai cấp, cho nhà nước


- Gây thiệt hại cho xã hội (về vật chất, tinh thần)


- Là hành vi của người có lỗi


- Mức nguy hiểm đáng kể cho xã hội (giới hạn cụ thể quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự)


Đây là dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất của tội phạm, bởi nó mang tính nội dung của tội phạm, làm cơ sở để phân biệt tội phạm với không phải tội phạm, chi phối tính chịu hình phạt của tội phạm.


2. Tính có lỗi của tội phạm


Chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự với những hành vi có lỗi. Lỗi là thái độ tâm lý của con người, nhận thức về hành vi nguy hiểm và mức độ hậu quả cho xã hội, có khả năng điều kiển và quyết định hành vi của bản than.


3. Tính trái pháp luật hình sự


Là làm trái những quy định của pháp luật hình sự


4. Tính chịu hình phạt

 

II. Phân loại: Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. 


- Tội phạm ít nghiêm trọng: là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù.


- Tội phạm nghiêm trọng: là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù.


- Tội phạm rất nghiêm trọng: là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù.


- Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng: là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.


Không dựa vào mức hình phạt mà tòa án tuyên để xác định loại tội phạm đã vi phạm, mà phải dựa vào mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội phạm đó.

 

III. Các yếu tố của tội phạm


1. Khách thể: là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị hành vi phạm tội xâm hại.


Đối tượng tác động của tội phạm là bộ phận của khách thể của tội phạm, bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ (VD: con người cụ thể; hoạt động bình thường của chủ thể; các đối tượng vật chất khác…)


2. Chủ thế: là người đã thực hiện hành vi phạm tội, có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.


2.1. Năng lực trách nhiệm hình sự: là khả năng nhận thức, tính chất, mực độ nguy hiểm mà người phạm tội thực hiện, cũng như khả năng điều khiển hành vi của người phạm tội.


- Khả năng nhận thức: là khả năng đánh giá hành vi của mình (tính hợp pháp, tính nguy hiểm…) dựa trên điều kiện sống, hoàn cảnh sống, công cụ, phương tiện.


- Khả năng điều khiển hành vi: là khả năng cân nhắc lựa chọn quyết định hành động của mình (có tự do ý chí khi lựa chọn hành vi của mình hay không)


Lưu ý:


+) Không có năng lực trách nhiệm hình sự: người phạm tội mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác, làm mất khả năng nhận thức dẫn tới mất khả năng điều khiển hành vi hoàn toàn, hoặc chưa hoàn toàn mất khả năng nhận thức nhưng mất khả năng điều khiển hành vi - không phải chịu trách nhiệm hình sự.


+) Năng lực trách nhiệm hình sự hạn chế: người mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác nhưng chỉ làm hạn chế khả năng nhận thức, điều khiển hành vi một phần - vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự nhưng được giảm nhẹ.


+) Năng lực trách nhiệm hình sự với tình trạng say rượu, chất kích thích.


2.2. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự


2.3. Chủ thể đặc biệt của tội phạm: là những chủ thể không những có đủ 2 dấu hiệu trên mà còn phải có dấu hiệu khác (tùy vào loại tội phạm) mà từ dấu hiệu bổ sung, người đó có thể phạm một số tội nhất định.


3. Mặt chủ quan của tội phạm


Là hoạt động tâm lý bên trong của tội phạm, bao gồm lỗi, động cơ phạm tội và mục đích phạm tội.


3.1. Lỗi


Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi của họ và đối với hậu quả của hành vi đó, được thể hiện dưới dạng lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý.


Lỗi cố ý: được chia thành lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp


Lỗi cố ý trực tiếp 


- Về mặt lý trí: người phạm tội nhận thức rõ sự nguy hiểm của hành vi và thấy trước được hậu quả của hành vi.


- Về mặt ý chí: người phạm tội mong muốn hậu quả xảy ra (đặc trưng của lỗi cố ý trực tiếp)


* Lỗi cố ý gián tiếp


- Về mặt lý trí: người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của hành vi và thấy trước được hậu quả có thể xảy ra.


- Về mặt ý chí: người phạm tội không mong muốn hậu quả xảy ra nhưng để mặc cho hậu quả xảy ra.


* Lỗi vô ý: được chia thành lỗi vô ý do quá tự tin và lỗi vô ý do cẩu thả


Lỗi vô ý do quá tự tin 


- Về mặt lý trí: người phạm tội thấy trước được hậu quả có thể xảy ra


- Về mặt ý chí: người phạm tội không mong muốn hậu quả xảy ra, nhưng là tin rằng hậu quả không xảy ra hoặc nếu có xảy ra thì vẫn ngăn ngừa được.


Lỗi vô ý do cẩu thả 


- Về mặt lý trí: người phạm tội không thấy trước được hậu quả nguy hiểm, nhưng đáng lẽ phải thấy trước, có thể thấy trước được hậu quả.


- Về mặt ý chí: người phạm tội không mong muốn hậu quả xảy ra.


Lưu ý: Hỗn hợp lỗi là trường hợp trong cấu thành tội phạm có 2 loại lỗi (cố ý và vô ý) được quy định đối với những tình tiết khách quan khác nhau, từ đó xem xét tình tiết nào là cấu thành tăng nặng.


3.2. Động cơ phạm tội: Là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội cố ý


3.3. Mục đích phạm tội: Là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội. (chỉ đặt ra với là cố ý trực tiếp)

 

4. Mặt khách quan của tội phạm


Là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thể giới khách quan. Bao gồm hành vi khách quan của tội phạm; hậu quả của tội phạm; và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả của tội phạm.


4.1. Hành vi khách quan của tội phạm


Là xử sự của con người thể hiện ra bên ngoài thế giới khách quan, bằng hình thức cụ thể và nhằm đạt được mục đích có chủ định và mong muốn


* Đặc điểm:


- Tính nguy hiểm cho xã hội


- Là hoạt động có ý thức và ý chí


- Là hành vi trái pháp luật


* Hình thức thể hiện: dưới dạng hành động hoặc không hành động


* Các dạng cấu trúc đặc biệt của hành vi khách quan của tội phạm


- Tội ghép: bao gồm những hành vi khác loại, có lien quan đến nhau, tương ứng là các khách thể khác nhau.


- Tội kéo dài: có khả năng diễn ra trong thời gian dài mà không gián đoạn (thông thường sẽ chấm dứt hành vi phạm tội khi bị bắt hoặc đầu thú)


- Tội liên tục: có những hành vi cùng xâm hại đến 1 khách thể, thực hiện ở những lần khác nhau, kế tiếp nhau về mặt thời gian, cùng chịu sự chi phối của một ý định chung thống nhất.


4.2. Hậu quả của tội phạm


* Khái niệm: là thiệt hại gây ra cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.


* Hình thức thể hiện: thể hiện ở sự biến đổi trạng thái tự nhiên của đối tượng tác động (thực thể tự nhiên, con người, đối tượng vật chất, biến dạng hoạt động của con người…)


* Các dạng hậu quả


- Thiệt hại về vật chất


- Thiệt hại về thể chất


- Thiệt hại về tinh thần


4.3. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả của tội phạm


Hành vi khách quan của tội phạm là nguyên nhân của hậu quả, và hậu quả là kết quả của hành vi khách quan của tội phạm.

 

Trân trọng!

Chuyên Viên Đinh Lụa - Công ty Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Đặt câu hỏi tư vấn
Chat zalo