Vũ Thanh Thủy

Tư vấn về tội cho vay nặng lãi theo quy định pháp luật hiện hành

Mẹ tôi có vay của bà A 7 triệu đồng, lãi suất 100000vnd/1thang/1 triệu. Hiện nay mẹ tôi không còn khả năng để trả lãi và có xin trả gốc. Bà A đồng ý nhưng vẫn tính tiền lãi và số tiền phải trả là 20 triệu đồng.

 

Bà A nói là trước đó có vay số tiền nhưng chưa trả hết nhưng thực tế bà A cài tiền quê vô để cho mẹ tôi trả nhưng mẹ tôi không trả và số tiền đó thành 20 triệu. Tôi có nói với bà A là sẽ trả đúng 7 triệu vì không có khả năng trả lãi. Bà A có gọi điện chửi bới và nhắn tin qua điện thoại chửi bới bằng những từ xúc phạm và doạ nạt sẽ nói cho gia đình nhà chồng tôi biết và doạ ra đường gặp sẽ cạo đầu.... hiện tôi đang mang thai, tôi rất lo lắng và không biết làm thế nào. Mong luật sư giúp ạ.

 

Trả lời: Cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi tới Công ty Luật Minh Gia, với trường hợp của bạn chúng tôi xin được tư vấn như sau:

 

Thông tin bạn cung cấp cho chúng tôi không có nói rõ thời điểm mẹ bạn vay tiền bà A và A có hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm bạn nên chúng tôi không thể tư vấn cụ thể cho bạn.

 

Giả sử, sau ngày 1/1/2015  các bên tiến hành giao kết hợp đồng vay tài sản thì trường hợp này sẽ áp dụng Bộ luật dân sự 2015 ,đồng thời nếu hành vi gọi điện xúc phạm danh dự, nhân phẩm của A diễn ra sau ngày 1/1/2018 thì sẽ áp dụng theo Bộ luật hình sự 2015. Như vậy, căn cứ vào thời điểm nêu trên để xác định luật áp dụng, do đó, trường hợp này sẽ dùng các quy định của BLDS 2015 và BLHS 2015 để giải quyết.

 

Thứ nhất, về hành vi gọi điện thoại, nhắn tin xúc phạm danh dự, nhân phẩm :

 

Theo thông tin bạn trình bày, mẹ bạn có vay bà A số tiền 7 triệu đồng với lãi suất 100.000/1 tháng/ 1 triệu .Sau đó, do không có khả năng trả nợ gốc và lãi nên mẹ bạn có xin bà A chỉ trả gốc, được A đồng ý. Tuy nhiên, người này yêu cầu mẹ bạn phải trả số tiền 20 triệu với lý do đó là số tiền mẹ bạn vay trước đó chưa trả, do vậy, cần phải xác định trước đó mẹ bạn có vay bà A bất cứ khoản tiền nào chưa? Hai bên có giao kết hợp đồng vay hay không?

 

Nếu trường hợp mẹ bạn có căn cứ chứng minh chỉ vay A duy nhất 7 triệu đồng và A đồng ý không lấy lãi, số tiền 20 triệu bà A yêu cầu thanh toán là không có căn cứ thì mẹ bạn chỉ cần thanh toán số tiền 7 triệu.

 

Khi bạn nói bạn không trả lãi và chỉ trả gốc thì bà A không đồng ý và có hành vi gọi điện, nhắn tin xúc phạm danh dự, nhân phẩm của bạn và dọa nạt nói với gia đình chồng bạn khiến bạn hoang mang, lo sợ thì tùy theo tính chất, mức độ mà bà A có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu TNHS:

 

Về xử phạt hành chính:

 

Căn cứ theo khoản 1 Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định:

 

Điều 5. Vi phạm quy định về trật tự công cộng

 

1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

 

a) Có cử chỉ, lời nói thô bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác;

 

Theo quy định này, nếu A có những hành vi xúc phạm danh dự, nhận phẩm của bạn nhưng chưa đến mức nghiêm trọng thì sẽ bị xử phạt hành chính từ 100-300.000, trường hợp này để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, bạn có quyền làm đơn gửi đến phía cơ quan có thẩm quyền giải quyết.

 

Về truy cứu TNHS tại điều 155 Bộ luật hình sự 2015:

 

Điều 155. Tội làm nhục người khác

 

1. Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

 

Do vậy, trường hợp bạn chứng minh được việc người này gọi điện thoại đe dọa, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của bạn nghiêm trọng thì có quyền tố giác với cơ quan công an để được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bạn. Khi đi tố giác bạn phải mang theo những bằng chứng để chứng minh việc tố giác của bạn là hoàn toàn đúng sự thật và có căn cứ thông qua tin nhắn, ghi âm cuộc gọi,…

 

Thứ hai, về tội cho vay nặng lãi:

 

A cho mẹ bạn vay số tiền 7 triệu với mức lãi suất 100.000/1 tháng/1 triệu thì khi tính lãi suất cho vay trong trường hợp này 10%/tháng. Đối chiếu với quy định tại điều 468 Bộ luật dân sự 2015 quy định:

 

Điều 468. Lãi suất

 

1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.

 

Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.

 

Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.

 

Theo quy định trên thì mức lãi suất mà các bên giao kết không quá 20%/năm tương đương với 1,67%/ tháng. Do đó với việc cho vay với mức lãi suất 10%/tháng đã vượt quá 5,9 lần mức lãi suất do pháp luật quy định. Việc bà A cho vay với mức trên đủ điều kiện để truy cứu về tội cho vay nặng lãi tại Điều 201 BLHS 2015:

 

Điều 201. Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự

 

1. Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

 

……

 

Như vậy, đối với trường hợp của bạn thì khi có đầy đủ căn cứ truy cứu về tội cho vay nặng lãi bạn có thể tố giác hành vi trên với cơ quan công an để được giải quyết, kèm theo tài liệu chứng minh về mức lãi suất cho vay vượt quá quy định.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn hỏi và quan tâm. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ cần luật sư giải đáp, bạn vui lòng gọi đến Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến của chúng tôi để được hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng.

P. Luật sư hình sự - Cty Luật Minh Gia.

 

 

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo