Luật sư Nguyễn Mạnh Tuấn

Tư vấn về hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Hỏi: Anh trai tôi đã lấy danh nghĩa là cán bộ phụ trách tuyển sinh cho 1trường trung cấp B để nhận 140 triệu của bà A. Với lý do chạy việc cho con trai bà A. Trước đây anh ấy đúng là cán bộ tuyển sinh của trường trung cấp B nhưng trước thời điểm nhận tiền anh ấy không còn làm công việc đó nữa nhưng bà A không hề biết điều đó.

Giao dịch có giấy nhận tiền ghi là: Anh trai tôi nhận 140 triệu của bà A để chạy việc cho con trai bà ấy,nếu không chạy được việc sẽ hoàn trả lại toàn bộ số tiền đó,nếu không sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật. Nhưng anh ấy không có khả năng chạy việc và cũng không có khả năng hoàn trả lại số tiền đó cho bà A. Nay bà A kiện anh trai tôi tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản,bằng chứng là giấy nhận tiền của anh trai tôi. Xin hỏi anh trai tôi sẽ bị xử phạt như thế nào?
Tôi cũng xin hỏi giao dịch giữa anh trai tôi và bà A có hợp pháp không? Bà A là 1 đảng viên,hiệu trưởng của 1 trường tiểu học mà lại đưa tiền cho anh trai tôi để nhờ chạy việc cho con trai bà thì có hợp pháp không? Nay ra tòa thì bà A có phải chịu trách nhiệm gì về việc này không? Gia đình tôi có quyền khiếu nại về việc này không?

Trả lời: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia, trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

Theo như thông tin bạn cung cấp, bà A có đưa một số tiền cho anh trai bạn để chạy việc cho con trai của bà A. Tuy nhiên, tại thời điểm bà A đưa tiền thì anh trai bạn không phải là người có chức vụ, chức danh làm công việc như đã nói với bà A. Do vậy, trong trường hợp này không đủ dấu hiệu để cấu thành tội đưa hối lộ hay nhận hối lộ theo quy định của Bộ luật hình sự. Với hành vi nêu trên, anh bạn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội làm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Căn cứ pháp lý:

Điều 140 – Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;

b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

A) Có tổ chức;

B) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

C) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;                         

D) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

Đ) Tái phạm nguy hiểm;

E) Gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

A) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

B) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

A) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

B) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này.

Căn cứ vào quy định trên, hành vi của anh trai bạn hoàn toàn đủ yếu tố cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Về giao dịch của bà B đối với anh trai bạn, đây là giao dịch bất hợp pháp, trái quy định của pháp luật về lao động. Do đó, giao dịch này sẽ bị tòa tuyên hủy và hai bên sẽ buộc hoàn trả lại nhau những gì đã nhận. Về việc chịu trách nhiệm trước pháp luật của bà A, hiện chưa đủ yếu tố cấu thành hành vi phạm tội của bà A theo quy định của Bộ luật hình sự. Căn cứ pháp lý:

Điều 289 – Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009. Tội đưa hối lộ

1. Người nào đưa hối lộ mà của hối lộ có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới mười triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc vi phạm nhiều lần, thì bị phạt tù từ một năm đến sáu năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ sáu năm đến mười ba năm:

A) Có tổ chức;

B) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

C) Dùng tài sản của Nhà nước để đưa hối lộ;

D) Phạm tội nhiều lần;

Đ) Của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;

E) Gây hậu quả nghiêm trọng khác.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười ba năm đến hai mươi năm:

A) Của hối lộ có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng;

B) Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân:

A) Của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng trở lên;

B) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một lần đến năm lần giá trị của hối lộ.

6. Người bị ép buộc đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì được coi là không có tội và được trả lại toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ.

Người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và được trả lại một phần hoặc toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ.

Căn cứ vào quy định của pháp luật, đối tượng nhận hối lộ phải có chức vụ, quyền hạn thì mới phát sinh dấu hiệu phạm tội đưa hối lộ. Do đó, chưa đủ căn cứ để xác minh hành vi phạm tội của người này. Tuy nhiên, bà A có thể bị xử lý kỷ luật tại nơi làm việc về mục đích hành vi của mình.

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Tư vấn về hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến bộ phận luật sư tư vấn trực tuyến - Số điện thoại liên hệ 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng!
Luật gia Đào Quang Vinh - Công ty Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo