LS Hồng Nhung

Trách nhiệm hình sự với người gây tai nạn giao thông bỏ trốn

Bố em bị tai nạn giao thông ngày 11/3/1992 bị thiệt mạng sau khi được đưa đi cấp cứu ở bệnh viện và người gây tai nạn lúc đó là người đàn ông tầm 38 tuổi (lái ô tô trong tình trạng say rượu) lúc đó bố em có vợ (mẹ em) anh em lúc đó 5 tuổi và em đc 7 tháng tuổi. Sau 24 năm chạy trốn công an đã bắt được người đàn ông gây tai nạn.

 

Hỏi: Luật sư tư vấn giúp em với trường hợp này bên gia đình nhà em được đền bù thiệt hại như thế nào?

 

- Về trách nhiệm hình sự thì người gây tai nạn có phải chịu hay không?  Mức án bao nhiêu năm tù?

 

- Nếu phía bên người gây tai nạn không chịu đền bù hoặc không có khả năng đền bù họ chỉ muốn chịu trách nhiệm hình sự có được không? Trường hợp này pháp luật giải quyết như thế nào? Có bắt buộc họ phải đền bù không? 

 

- Trường hợp đền bù với 1 số tiền quá thấp (khoảng 30 - 40 triệu ) trường hợp này gia đình em phải làm sao để được hưởng đúng số tiền nhà em đã bị thiệt hại và số tiền đã lo tang lễ. Vì họ chỉ chịu đền bù ở mức đó hoặc không đền bù để đi tù.

 

Trả lời: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến Công ty, trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

 

Điều 202 Bộ luật hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ:

 

1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

 

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

 

a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;

 

b) Trong khi say rượu hoặc say do dùng các chất kích thích mạnh khác;

 

c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;

 

...

 

4. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

 

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

 

Bên cạnh đó Điều 3 Thông tư 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC ngày 28 tháng 8 năm 2013 của Bộ Công An – Bộ Quốc Phòng – Bộ Tư Pháp – Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao – Tòa Án Nhân dân Tối Cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIX của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm trật tự, an toàn giao thông quy định:

 

1. Hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ của người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ quy định tại khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự được hiểu là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy tắc giao thông đường bộ và hành vi này phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả về tính mạng, sức khỏe và tài sản.

 

...

 

2. Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự được hiểu là một trong những trường hợp sau đây:

 

a) Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ mà trong cơ thể có chất ma túy hoặc đang trong tình trạng say do sử dụng các chất mà sau khi sử dụng có biểu hiện say như người sử dụng ma túy, rượu, bia;

 

b) Người điều khiển xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn;

 

c) Người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy mà trong máu có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc 0,25 miligam/1 lít khí thở.

 

Trong tình huống bạn nêu, phụ thuộc vào kết luận điều tra của cơ quan công an, nếu hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ của người đàn ông gây tai nạn là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của bố bạn thì người đó đã vi phạm hai điểm của Khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự, đó là “trong khi say rượu hoặc say do dùng các chất kích thích mạnh khác” (Điểm b). Bên cạnh đó, người này còn vi phạm quy định tại Điểm c: “gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn”. Như vậy, người đó có thể chịu hình phạt tù từ ba năm đến mười năm theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, người phạm tội có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm (Khoản 5 Điều  202 Bộ luật hình sự).

 

Điều 610 Bộ luật dân sự 2005 quy định:

 

1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:

 

a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết;

 

b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;

 

c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng.

 

2. Người xâm phạm tính mạng của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá sáu mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.

 

Như vậy, gia đình bạn sẽ được hưởng các mức bồi thường theo quy định tại Điều 610 Bộ luật dân sự. Ngoài ra, khi còn sống bố bạn có nghĩa vụ cấp dưỡng thì những người được hưởng cấp dưỡng đó được hưởng tiền cấp dưỡng trong thời hạn sau (Khoản 2 Điều 612 Bộ luật dân sự):

 

a) Người chưa thành niên hoặc người đã thành thai là con của người chết và còn sống sau khi sinh ra được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi đủ mười tám tuổi, trừ trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động và có thu nhập đủ nuôi sống bản thân;

 

b) Người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi chết.

 

Nguyên tắc bồi thường thiệt hại như sau (Điều 605 Bộ luật dân sự):

 

1. Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thoả thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

 

2. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.

 

3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu Toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.

 

Nếu người gây tai nạn cho bố bạn có đủ khả năng bồi thường thì phải bồi thường toàn bộ và kịp thời cho gia đình bạn. Gia đình bạn và người đó có thể thỏa thuận về các vấn đề liên quan đến việc bồi thường này. Nếu không đi được đến thỏa thuận hợp lý, gia đình bạn có thể nhờ Tòa án giải quyết. Việc bồi thường là bắt buộc, trách nhiệm bồi thường và trách nhiệm hình sự là tách biệt, không thay thế nhau được, vì vậy, người đó không thể trốn tránh trách nhiệm do mình gây ra. Chỉ trong trường hợp phạm tội do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài thì người đó mới được giảm mức bồi thường mà mình phải chịu.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Trách nhiệm hình sự với người gây tai nạn giao thông bỏ trốn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến bộ phận luật sư tư vấn trực tuyến - Số điện thoại liên hệ 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng!

CV Quách Vũ Ngọc Hà - Công ty Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo