Lò Thị Loan

Tội sử dụng mạng máy tính để chiếm đoạt tài sản

Quy định pháp luật luật hình sự về tội phạm công nghệ thông tin? Trường hợp sử dụng mạng máy tính để chiếm đoạt tài sản bị xử lý như thế nào?
Câu hỏi:
Anh A sử dụng mạng facebook để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của chị T với số tiền gần 14 triệu đồng. Nay công an thành phố đã bắt giữ anh A, anh này đã nhận tội và đã bồi thường thiệt hại (công an nói là khắc phục hậu quả và anh A đã bồi thường số tiền là 14 triệu). Tôi muốn hỏi là anh A có phải đi tù hay là không? Và nếu bị phạt hành chính là bao nhiêu tiền  (vì công an nói anh A thuộc tội phạm sử dụng công nghệ cao & lấy thông tin cá nhân của người khác). Tôi xin cảm ơn.
 

Trả lời: Chào bạn, trường hợp của bạn chúng tôi xin tư vấn như sau:
 
Theo như thông tin bạn cung cấp thì anh A có hành vi sử dụng mạng facebook để lừa đảo chiếm đoạt tài sản và đã bị công an phát hiện, điều tra. Trong trường hợp này anh A đã thực hiện hành vi được quy định tại Điều 290 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017) về tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản:

 

Điều 290. Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản

 

1. Người nào sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử thực hiện một trong những hành vi sau đây, nếu không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 173 và Điều 174 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

 

a) Sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của Cơ quan, tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ;

 

b) Làm, tàng trữ, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả nhằm chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ;

 

c) Truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản;

 

d) Lừa đảo trong thương mại điện tử, thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc giao dịch chứng khoán qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản;

 

đ) Thiết lập, cung cấp trái phép dịch vụ viễn thông, internet nhằm chiếm đoạt tài sản.

 
Về việc anh A đã nhận tội và đã hoàn trả số tiền 14 triệu đồng cho chị T được coi là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả”.

 

Tuy nhiên việc anh A có bị xử phạt tù hay không còn phụ thuộc vào tình tiết cụ thể của vụ án và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhân thân của anh A.

 

Đối với việc xử phạt hành chính, trong trường hợp này anh A đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi sử dụng mạng chiếm đoạt tài sản thì không bị xử phạt theo pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính nữa. Trong trường hợp xét xử, Tòa án có thể căn cứ quy định tại Điều 290 để xử phạt tiền đối với anh A. Bạn có thể tham khảo Thông tư liên tịch 10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTP-BTTTT-VKSNDTC-TANDTC áp dụng BLHS về tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn thông.

 

Trân trọng!

Phòng luật sư tư vấn - Công ty Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo