Luật sư Nguyễn Mạnh Tuấn

Nhận tiền để chạy tội cho người khác thì phạm tội gì?

​Em có bạn làm thu ngân cho một tiệm net và cafe. Bạn em được giao quản lí thu chi trong ngày. Sau đó, bạn em cầm số tiền là 7200.000 rồi trốn đi. Chủ quán cafe trình báo công an và bạn em bị bắt , khởi tố tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Sau khi bạn em bị bắt, có anh A ( người này làm nhiệm vụ tìm bắt bạn em) liên hệ với gia đình, bảo là có quen biết nên có thể giúp gia đình lo cho bạn em về được mà không phải đi tù, vì số tiền bạn em lấy đã bị công an thu lại hơn một nửa, người này nói tội của bạn em nhẹ thôi nên chỉ cần lo bên điều tra thì bạn em sẽ được về, khoảng 3 tuần là bạn em sẽ được về.  Gia đình bạn em tin vị này nên đã đưa trước 3 triệu đồng và nói sẽ đưa đủ khi bạn em về. Người này đòi số tiền là 15 triệu và chấp nhận khoản cọc, đồng ý sau khi bạn em về sẽ lấy khoản còn lại. Sau khi lấy tiền, vài hôm sau người này lại gọi và bảo bên điều tra đòi 4 triệu để sửa hồ sơ. Gia đình bạn em nghi ngờ nên không đưa thêm nữa và ghi âm lại các cuộc gọi sau này. Khi gia đình hỏi tình hình bạn em thế nào thì anh A này chỉ nói bâng quơ chứ không biết chính xác thông tin gì cụ thể. Đến lúc điều tra viên thụ lí hồ sơ của bạn em liên hệ với gia đình để gia đình vào gặp mặt bạn em, và người thụ lí hồ sơ cũng khác tên so với người mà vị công an kia nói với gia đình. Gia đình bạn em điện thoại hỏi thì người đó ậm ừ rồi tắt máy và không liên lạc được nữa. Vậy em xin hỏi luật sư, gia đình bạn em có tố cáo vị công an kia tội nhận hối lộ được không? Và nếu gia đình tố cáo tội nhận hối lộ thì gia đình có bị xử lí về tội đưa hối lộ không? Và trong trường hợp này, gia đình có thể tố cáo vị công an này tội lạm dụng chức vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản không?
 
Nhận tiền để chạy tội cho người khác thì phạm tội gì?
( Ảnh minh họa)
 

Trả lời: Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi cần tư vấn tới Công ty Luật Minh Gia, với thắc mắc của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

 

Theo như chị trình bày thì anh A là người có chức vụ, quyền hạn trong việc điều tra vụ án này. Vì vậy, với hành vi của mình anh A có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong 2 trường hợp sau:

 

Thứ nhất,Anh A nhận tiền và trong quyền hạn của mình anh có hành vi cố ý làm trái quy định của pháp luật về tố tụng hình sự, thay đổi sự thật khách quan với mục đích làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội. Khi đó, anh A sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội nhận hối lộ theo quy định tại điều 354 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017):

 

“1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào sau đây cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

 

a) Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

 

b) Lợi ích phi vật chất.

 

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

 

a) Có tổ chức;

 

b) Lạm dụng chức vụ, quyền hạn;

 

c) Của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

…”

 

Khi đó, người đưa tiền cho anh A có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với hành vi đưa hối lộ. Tuy nhiên nếu có hành vi khai báo nhận tội thì người này có thể được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 7 điều 364 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017):

 

“7. Người bị ép buộc đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì được coi là không có tội và được trả lại toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ.

 

Người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và được trả lại một phần hoặc toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ.”

 

- Nếu người có thẩm quyền thực hiện hành vi thay đổi sự thật khách quan của vụ án này là một người khác và nhận tiền từ anh A để thực hiện hành vi theo anh A có thể bị truy cứu về hành vi môi giới hối lộ (điều 365 BLHS 2015) hoặc đồng phạm trong hành vi đưa hối lộ (điều 364 BLHS 2015).

 

Thứ hai, nếu như anh A nhận tiền nhưng anh A hoàn toàn không liên quan gì đến việc điều tra vụ án (chỉ liên quan đến việc bắt giữ) và cũng không có hành vi tác động đến điều tra viên để thay đổi biên bản kết luận điều tra của người này thì khi đó anh A sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điều 355 Bộ luật hình sự 2015:

 

“Điều 355. Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản

 

1. Người nào lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 06 năm:

 

a) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm;

 

b) Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

 

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 năm đến 13 năm:

 

a) Có tổ chức;

 

b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;

 

c) Phạm tội 02 lần trở lên;

 

d) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

…”

 

Trong trường hợp này, người đưa tiền sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

 

Nếu không lấy lại được tiền từ anh A thì gia đình có thể viết đơn tố cáo hành vi phạm tội này đến cơ quan Công an tại địa phương để được giải quyết.

 

Trân trọng!     
Luật gia: Việt Dũng - Công ty Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo