Triệu Lan Thảo

Luật sư tư vấn về tiền án, tiền sự?

Tháng 09/2015, tôi bị Cơ quan Công an xử phạt vi phạm hành chính, với số tiền 2.500.000đ về hành vi "Xâm hại đến sức khỏe của người khác" , tôi chưa chấp hành việc đóng phạt đối với hành vi trên. Ngày 18/12/2015 tôi có xảy ra mâu thuẫn với Nguyễn Văn A, dẫn đến việc tôi gây thương tích cho A.

 

Cơ quan Công an đã Trưng cầu giám định tỷ lệ thương tật đối với anh A, nhưng chưa có kết luận tỷ lệ tổn thương do thương tích gây ra. Ngày 30/12/2015 tôi đã bồi thường dân sự thỏa đáng cho anh A, đồng thời anh A đã có đơn từ chối đi giám định tỷ lệ thương tật và không có yêu cầu khởi tố vụ án đối với vụ việc trên.Tôi xin hỏi, trường hợp của tôi có bị tính tiền sự hay không ? và thế nào là tiền án, thế nào là tiền sự mong luật sư tư vấn, tôi xin cảm ơn.

 

Trả lời: Công ty Luật Minh Gia xin gửi lời cảm ơn tới bạn! Về câu hỏi của bạn công ty chúng tôi xin được tư vấn như sau:

 

Tiền án là một đặc điểm nhân thân của người đã bị kết án hình sự và thi hành hình phạt mà chưa được xóa án tích.

 

Tiền sự cũng là một đặc điểm nhân thân nhưng dùng để chỉ người đã bị xử phạt vi phạm hành chính,  xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vi phạm pháp luật có những dấu hiệu của tội phạm nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.

 

Trong trường hợp của anh là đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Xâm hại đến sức khỏe của người khác”.  Tuy trong trường hợp này có dấu hiệu của tội phạm nhưng chưa đủ để cấu thành tội phạm Cố ý gây thương tích được quy định tại điều 104 BLHS 1999 nên đã bị cơ quan công an xử phạt chính.  Vậy trường hợp này của anh sẽ bị tính là có tiền sự.

 

Đến ngày 18/12/2015 anh có gây thương tích cho anh A. BLHS 1999 quy định về tội cố ý gây thương tích tại: 

 

Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác: 

 

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

 

a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

 

b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

 

c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

 

d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

 

đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

 

e) Có tổ chức;

 

g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

 

h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

 

i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

 

k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

 

2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

 

3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.

 

 4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.

 

Điều 105 Bộ Luật tố tụng hình sự 2003 quy định  Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại:

 

1. Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.

 

2. Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ.

 

Trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.

 

Người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.

 

Theo quy định trên thì vụ án về tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác bị truy cứu tại khoản 1 chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. Theo thông tin anh cung cấp, cơ quan điều tra đã trưng cầu tỷ lệ thương tật nhưng chưa có kết quả. Vậy việc người bị hại rút đơn chỉ có ý nghĩa khi tỷ lệ thương tật từ 30% trở xuống (thuộc khoản 1 Điều 104).

 

Trong trường hợp của anh, nếu cơ quan công an xác định tỉ lệ thương tật mà thuộc 03 trường hợp sau anh sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự:

 

- Dưới 11% nhưng không thuộc các trường hợp quy định tại các điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 BLHS ;

 

- Dưới 11% nhưng thuộc các trường hợp quy định tại các điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 BLHS và anh A không yêu cầu khởi tố hoặc rút đơn khởi tố.

 

- Từ 11% đến 30% nhưng không thuộc các trường hợp quy định tại các điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 BLHS và anh A không yêu cầu khởi tố.

 

Còn ngoài các trường hợp trên thì anh sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự, lúc này anh sẽ là người có án tích.

 

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Luật sư tư vấn về tiền án, tiền sự?. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến bộ phận luật sư tư vấn trực tuyến - Số điện thoại liên hệ 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng!

Lê Văn Minh-Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Đặt câu hỏi tư vấn
Chat zalo