Cà Thị Phương

Hỏi về khởi tố tội vi phạm luật giao thông đường bộ

Vào ngày 14/01/2016, em ruột của tôi tên là ĐK, trên đường đi làm về lúc khoảng 1h30 sáng trên đoạn đường A, chồng của em gái tôi điều khiển xe máy chở theo con nhỏ 4 tuổi và em gái tôi. Lúc đang chạy với tốc độ bình thường 35km/h, thì bất ngờ từ phía sau có 1 xe máy tay ga, chạy gần như là hết tốc độ, đã đâm vào đuôi xe máy của em tôi. Hậu quả là em tôi nhập viện được 5 ngày thì qua đời do chấn thương sọ não, chồng của em gái tôi thì đi sắp xương tay phải lại, còn đứa bé xây xát ngoài da.


Hỏi: Khi chôn cất em gái tôi xong, em rể tôi có ra công an Q7 để CA lấy lời khai và chuyển hồ sơ lên CA điều tra. Từ hôm đó tới nay, gia đình tôi không hề nhận được thông báo nào về việc giải quyết tai nạn cả. Vậy luật sư làm ơn cho hỏi từ khi chuyển hồ sơ lên CAĐT, thời hạn là bao nhiêu ngày để xử lý và ra tòa, kẻ gây ra tai nạn cho em tôi tại sao không bị bắt nhốt. Nếu gia đình bên gây ra tai nạn họ có điều kiện kinh tế để chạy chọt và bên gia đình tôi làm giấy bãi nại thì liệu kẻ gây ra tai nạn có bị ở tù không thưa luật sư. Cả tháng nay, tôi vừa đi làm , vừa kiếm tiền nuôi 2 con nhỏ của em gái tôi nữa ( đứa lớn 9 tuổi, đứa nhỏ 4 tuổi) do cha nó chưa tháo băng. Vậy mức bồi thường thiệt hại cho gia đình chúng tôi là như thế nào vậy luật sư?

Trả lời: Trước tiên, chúng tôi xin gửi lời chia buồn với gia đình bạn . Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi yêu cầu tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia. Trường hợp của bạn chúng tôi xin tư vấn như sau:

- Về thời hạn xử lý vụ việc

Theo thông tin bạn cung cấp và quy định của pháp luật, thấy rằng người gây ra tai nạn có lỗi trong việc xảy ra tai nạn. Người gây ra tai nạn sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự do hành vi vi phạm của mình.

Điều 202 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009 về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ

“1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;

b) Trong khi say rượu hoặc say do dùng các chất kích thích mạnh khác;

c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;

d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;

đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

4. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”

Theo thông tin bạn đưa ra, hành vi của người phạm tội chưa đủ yếu tố cấu thành tội đặc biệt nghiệm trọng. Vậy hành vi của người phạm tội sẽ được cơ quan chức năng điều tra, xem xét làm rõ đưa ra kết luận thuộc một trong các loại tội làm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng. Thời hạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án được chia như sau:

- Thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và khởi tố vụ án hình sự:

Theo quy định tại khoản 2 Điều 103 của Bộ luật tố tụng hình sự 2003

 “Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra trong phạm vi trách nhiệm của mình phải kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết định việc khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự.

Trong trường hợp sự việc bị tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn để giải quyết tố giác và tin báo có thể dài hơn, nhưng không quá hai tháng.”

Như vậy, trong thời hạn tối đa là 2 tháng kể từ ngày nhận được trình báo của gia đình bạn, cơ quan chức năng sẽ gửi thông báo cho cho gia đình bạn biết về việc khởi tố và điều tra vụ án

- Thời hạn điều tra:

Thời hạn điều tra vụ án hình sự: “Không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra.”

Hết thời hạn điều tra, cơ quan điều tra sẽ ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố.

- Thời hạn truy tố:

Điều 166. Thời hạn quyết định truy tố

“1. Trong thời hạn hai mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, ba mươi ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, Viện kiểm sát phải ra một trong những quyết định sau đây:

a) Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng;

b) Trả hồ sơ để điều tra bổ sung;

c) Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.

Trong trường hợp cần thiết, Viện trưởng Viện kiểm sát có thể gia hạn, nhưng không quá mười ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng; không quá mười lăm ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng; không quá ba mươi ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra một trong những quyết định nêu trên, Viện kiểm sát phải thông báo cho bị can, người bào chữa biết; giao bản cáo trạng, quyết định đình chỉ vụ án hoặc quyết định tạm đình chỉ vụ án cho bị can. Người bào chữa được đọc bản cáo trạng, ghi chép, sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa theo quy định của pháp luật và đề xuất yêu cầu.

2. Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát có quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can. Thời hạn tạm giam không được quá thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này.

3. Trong trường hợp truy tố thì trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra quyết định truy tố bằng bản cáo trạng, Viện kiểm sát phải gửi hồ sơ và bản cáo trạng đến Tòa án.

4. Trong trường hợp vụ án không thuộc thẩm quyền truy tố của mình, Viện kiểm sát ra ngay quyết định chuyển vụ án cho Viện kiểm sát có thẩm quyền.”

Thời hạn xét xử:

Điều 176. Thời hạn chuẩn bị xét xử

“2. Trong thời hạn ba mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, bốn mươi lăm ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, hai tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, ba tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra một trong những quyết định sau đây:

a) Đưa vụ án ra xét xử ;

b) Trả hồ sơ để điều tra bổ sung;

c) Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.

Đối với những vụ án phức tạp, Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá mười lăm ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá ba mươi ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Việc gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử phải được thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp.

Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên toà; trong trường hợp có lý do chính đáng thì Toà án có thể mở phiên toà trong thời hạn ba mươi ngày.

Đối với vụ án được trả lại để điều tra bổ sung thì trong thời hạn mười lăm ngày sau khi nhận lại hồ sơ, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.”
  • Về câu hỏi nếu gia đình bạn làm giấy bãi nại thì kẻ gây ra tai nạn có phải chịu trách nhiệm hình sự không?
Đơn bãi nại được hiểu là rút yêu cầu khởi kiện. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật hình sự thì không phải mọi trường hợp có đơn bãi nại của người bị hại thì đều không phải chịu trách nhiệm hình sự mà chỉ có một số tội danh quy định tại điều 105 Bộ Luật Tố tụng Hình sự năm 2003.

Điều 105. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại

“1. Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105,106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.”
 
+ Khoản 1 Điều 106 : Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
 
+ Khoản 1 Điều 108 : Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
 
+ Khoản 1 Điều 109 : Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính
 
+ Khoản 1 Điều 111:  Tội hiếp  dâm
 
+ Khoản 1 Điều 113 :  Tội cưỡng dâm
 
+ Khoản 1 Điều 121 : Tội làm nhục người khác
 
+ Khoản 1 Điều 122 : Tội vu khống
 
+ Khoản 1 Điều 131 : Tội xâm phạm quyền tác giả
 
+ Khoản 1 Điều 171 : Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
 
Do vậy, trong trường hợp này dù bên thân nhân người bị hại đã ký đơn bãi nại nhưng người có hành vi vi phạm pháp luật vẫn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình.
  • Về mức bồi thường thiệt hại:

Như đã nói ở trên

Điều 202. Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ

“1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm”

Như vậy, gia đình bạn có thể nhận được mức bồi thường từ 5 – 50 triệu theo pháp luật hình sự.

Ngoài ra, người gây tai nạn cũng sẽ phải chịu trách nhiệm dân sự theo quy định tại Điều 610 Bộ luật dân sự 2005 bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm:

“1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:

a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết;

b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;

c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng.

2. Người xâm phạm tính mạng của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá sáu mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.”

Như vậy, trong trường hợp người gây ra tai nạn có lỗi (cố ý hoặc vô ý) thì phải bồi thường các khoản như sau:

- Chi phí hợp lý cho việc mai táng bao gồm: các khoản tiền mua quan tài, các vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa, thuê xe tang và các khoản chi khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc hoả táng nạn nhân theo thông lệ chung. Không giải quyết yêu cầu bồi thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn uống, xây mộ, bốc mộ..;

- Một khoản tiền bù đắp về mặt tinh thần, mức bồi thường do các bên thỏa thuận nhưng tối đa không vượt quá 60 tháng lương cơ bản.

Do pháp luật không có quy định cụ thể về mức tiền được coi là hợp lý cho việc mai táng nên khi bồi thường thì do các bên tự thỏa thuận, và khi Tòa án giải quyết sẽ xác định theo thông lệ chung.

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Hỏi về khởi tố tội vi phạm luật giao thông đường bộ. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến bộ phận luật sư tư vấn trực tuyến - Số điện thoại liên hệ 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng!

CV.Nguyễn Hoài Thu - Công ty Luật Minh Gia
 

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo