Vũ Thanh Thủy

Hành vi vu khống người khác lừa đảo chiếm đoạt tài sản?

Xin chào Luật sư! Tôi là giáo viên tiểu học, chồng tôi làm nghề chế biến và buôn bán đồ mỹ nghệ gỗ. Tháng 11 chồng tôi có nhận làm cho ông H một bộ bàn ghế và được ông H đặt coc 10.000.000đ. Sau đó do công việc không thuận lợi nên chồng tôi không giao hàng đúng hẹn cho ông H được. Sau đó chồng tôi có thỏa thuận lại với ông H về việc trả lại tiền cọc.


Do công việc còn gặp nhiều khó khăn nên chồng tôi chưa có tiền để trả lại ngay cho ông H, chồng tôi có hẹn sẽ trả tiền cho ông H sau, nhưng ông H không chịu, và đã làm đơn kiến nghị gửi đến trường nơi tôi công tác, tố cáo tôi tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, và yêu cầu tôi phải trả lại số tiền cọc mà ông đã đặt cho chồng tôi. Trong hợp đồng tôi không chứng kiến, không kí tên nhận hợp đồng vì công việc của chồng và tôi không có liên quan đến nhau, nên tôi cũng không có thói quen can thiệp vào công việc của chồng. Như vậy hành động của ông H đối với tôi có phải là hành động vu khống hay không? có ảnh hưởng gì tới công việc của tôi hay không? và tôi phải làm gì để ông H tự rút đơn tố cáo tôi? Tôn xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của Quý Đoàn.
 

Trả lời: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đến Luật Minh Gia. Trường hợp của bạn, chúng tôi tư vấn như sau:

 

Thứ nhất, về việc anh H gửi đơn kiến nghị đến trường nơi làm việc của chị.

 

Tội vu khống theo quy định của Bộ luật hình sự tại Điều 156 quy định như sau:

 

“Điều 156. Tội vu khống

 

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:

 

a) Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;

 

b) Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.

 

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:

 

a) Có tổ chức;

 

b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

 

c) Đối với 02 người trở lên;

 

d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình;

 

đ) Đối với người đang thi hành công vụ;

 

e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;

…”.

 

Vậy việc anh H làm đơn gửi đến cơ quan nơi chị công tác, hành vi này có cấu thành tội vu khống hay không còn phụ thuộc vào nội dung, mục đích của đơn và mức độ ảnh hưởng của hành động này.

 

Thông tin chị cung cấp chưa đầy đủ nên chúng tôi không thể khẳng định anh H có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội vu khống hay không.

 

Thứ hai, khi tiếp nhận đơn của anh H thì cơ quan chị phải tiến hành xác thực thông tin trong đơn trước khi xử lí theo nội quy, quy định của cơ quan. Nên nếu việc anh H nêu trong đơn là hoàn toàn không phải là sự thật thì việc này không ảnh hưởng gì đến công việc của chị.

 

Gia đình chị và anh H, hai bên có thể thỏa thuận việc này. Nếu anh H vẫn không dừng việc gửi đơn nói chị lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì chị có thể nhờ tới cơ quan công an giải quyết.

 

Trân trọng!
CV. Lã Tuyền - Công ty Luật Minh Gia.

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Đặt câu hỏi tư vấn
Chat zalo