Luật sư Nguyễn Mạnh Tuấn

Bồi thường trong trường hợp gây tai nạn giao thông thiệt hại tới tính mạng của người khác

Xe chồng tôi lưu thông trên đường đèo và va quẹt với xe máy gây tử vong. Gia đình tôi đã bồi thường cho người bị hại trước 16 triệu đồng để lo hậu sự. Nếu khi ra tòa bên người bị hại không rút đơn thì mức án và tiền bồi thường cho người bị hại là như thế nào?

 

Nội dung câu hỏi: Chào luật sư! Tôi xin đi thẳng vào vấn đề, Chồng tôi làm tài xế xe tải thuê, đang lưu thông xe tải chở hàng đủ tải trọng xuống dốc đèo va quẹt với xe máy gây tử vong cho người ngồi sau xe máy do xe tải hư hộp số và mất thắng khi đang đổ dốc đèo, sau khi gây tai nạn đã đến công an trình báo sự việc, đã được người nhà bảo lãnh và bồi thường cho bị hại trước là 16 triệu đồng để lo hậu sự và ký biên bản với lý do là không làm chủ được tốc độ nên gây tai nạn. Chờ 2 tuần sau lên hòa giải và hoàn tất hồ sơ để ra tòa. Bên chủ xe giấy tờ xe, bảo hiểm đầy đủ, nhưng tôi không thấy cơ quan điều tra làm giám định xe. Tôi xin hỏi nếu lần sau tôi lên mà bị hại không bãi nại cho chồng tôi, thì mức án và tiền bồi thường cho bị hại là như thế nào, và nếu bãi nại thì như thế nào. Hiện tại vợ chồng tôi có 2 con nhỏ, 1 bé 2 tuổi và 1 bé 7 tháng, chồng tôi là lao động chính, gia đình hộ nghèo hoàn cảnh khó khăn. Tôi rất mong nhận được giải đáp từ luật sư sớm và nhanh nhất, tôi xin chân thành cảm ơn!

 

 

Trả lời: Chào bạn! Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi cần tư vấn tới công ty Luật Minh Gia, với trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

 

Thứ nhất, về vấn đề người bị thiệt hại rút đơn khởi kiện

 

Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại như sau:

 

“Điều 155. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại

 

1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.

 

2. Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án...”

 

Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nếu người bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án đối với các tội được quy định tại Khoản 1 Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì người phạm tội sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Theo đó, trường hợp của chồng bạn không thuộc các trường hợp được quy định tại Điều 155 do đó nếu bên phía người bị hại rút đơn khởi kiện thì chồng bạn vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu xét thấy có dấu hiệu của tội phạm.

 

Thứ hai, với vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự

 

Chồng bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo quy định tại Điều 260 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 như sau:

 

Điều 260. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

 

1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

 

a) Làm chết người;

 

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương có thể 61% trở lên;

 

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;...”

 

Chồng bạn có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nếu có các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Trường hợp của chồng bạn không thuộc các đối tượng được quy định tại Điều 62 Bộ luật hình sự 2015 do đó không được miễn chấp hành hình phạt.

 

Thứ ba, với vấn đề bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tính mạng

 

Vấn đề bồi thường thiệt hại do gây thiệt hại về tính mạng được quy định cụ thể tại Điều 591 Bộ luật dân sự 2015 bao gồm các khoản sau:

 

“1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:

 

a) Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật này;

 

b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;

 

c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng;

 

d) Thiệt hại khác do luật quy định.

 

2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tính mạng của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”

 

Pháp luật nước ta hiện nay tôn trọng sự thỏa thuận giữa các bên do đó gia đình bạn có thể thỏa thuận với phía người bị thiệt hại một mức bồi thường có thể thấp hơn mức bồi thường theo quy định của pháp luật. 

 

Trân trọng.
CV tư vấn: Nguyễn Nhàn - Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo