Luật sư Lê Văn Chức

Bồi thường thiệt hại khi gây ra tai nạn giao thông

Xin chào Luật sư.Tôi xin hỏi chồng tôi tham gia giao thông trên đường bằng xe máy trong quá trình táp sang đường bên kia xem xét để muốn vượt ô tô thì va chạm với 1 xe máy đi ngược chiều.


 Hậu quả là người kia bị gãy hở xương đùi ở mức ko nghiêm trọng. Chồng tôi bị gãy xương má vỡ hàm và vỡ sương hốc mắt. Vậy gia đình phải đền bù như thế nào trong tình trạng sau khi ngã đến nay tinh thần của chồng tôi có hoảng loạn và không bình thường như chưa tai nạn.
 

Trả lời: cảm ơn bạn đã gửi nội dung đề nghị tư vấn tới Công ty Luật Minh Gia chúng tôi, trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

 

Căn cứ thông tin bạn cung cấp, trường hợp chồng của bạn qua đường không quan sát, không chấp hành quy định của Luật An toàn giao thông đường bộ dẫn đến gây tai nạn giao thông thì hành vi của chồng bạn có thể sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo quy định tại Điều 260 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017:

 

“Điều 260. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

 

1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

 

a) Làm chết người;

 

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

 

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

 

d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

...”

 

Đồng thời, chồng bạn phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đối với người bị thiệt hại theo quy định tại Điều 590 Bộ luật Dân sự 2015:

 

“Điều 590. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm

 

1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:

 

a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;

 

b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;

 

c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;

 

d) Thiệt hại khác do luật quy định.

 

2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”

 

Mức bồi thường có thể thấp hơn hoặc không phát sinh trách nhiệm bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại theo Khoản 2 Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015:

 

“Điều 584. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại

 

1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.

 

2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.

 

3. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này.”

 

Ngoài ra, tình tiết chồng bạn có dấu hiệu hoảng loạn, không ổn định về tâm lý không phải là căn cứ để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như giảm nhẹ mức bồi thường. Trường hợp tình trạng không ổn định về mặt tâm lý của chồng bạn ngày càng nghiêm trọng dẫn đến mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình thì Tòa án có thể quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với chồng bạn theo quy định tại Điều 49 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017:

 

“Điều 49. Bắt buộc chữa bệnh

...

2. Đối với người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự nhưng trước khi bị kết án đã mắc bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì căn cứ vào kết luận giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần, Tòa án có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự.

...

Thời gian bắt buộc chữa bệnh được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù.”

 

Trân trọng!

Phòng tư vấn - Công ty Luật Minh Gia
 

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo