LS Vũ Thảo

Bỏ trốn khi mượn xe của bạn rồi đi cầm có cấu thành tội phạm không?

Ngày 26/7/2015 em trai (A) có cho một người bạn (B) mượn xe máy nhưng đến 18h cùng ngày vẫn không thấy người đó trả. Người đó đã đi cầm xe của em tôi với giá là 12 triệu. Tôi có nên làm đơn tố cáo về hành vi chiếm đoạt tài sản không? Và nếu được thì căn cứ vào những điều, khoản nào?

Câu hỏi:

Tôi tên là Nguyễn Thị X, hiện đang sống tại Quảng Trị. khoảng 14h ngày 26/7/2015 em trai (A) có cho một người bạn (B) mượn xe máy nhưng đến 18h cùng ngày vẫn không thấy người đó trả. Chúng tôi có lên nhà hỏi thì gia đình người bạn đó nói 5-6 tháng nay không lên nhà. ngày 27/7/2015 tôi có làm đơn tường trình gủi cho công an xã nơi người đó sinh sống. Đến ngày 06/8 theo thông tin của một số người quen tôi biết được người đó đã cầm xe của em trai tôi tại thành phố Đ với giá 12.000.000đ, thêm cả tiền lời cho 5 ngày cầm là 500.000đ. nên tôi đã đưa tiền về chuộc xe lên. 

Xin hỏi luật sư tôi có nên làm đơn tố cáo về hành vi chiếm đoạt tài sản không? Và nếu được thì căn cứ vào những điều, khoản nào? Thủ tục tiến hành như thế nào?
  
Trả lời: Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi tới Công ty Luật Minh Gia, chúng tôi tư vấn trường hợp của bạn như sau:

Thứ nhất, hành vi mượn xe máy mang đi cầm đã cấu thành nên tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự.

Trong trường hợp 1: B có ý định chiếm đoạt tài sản trước khi mượn xe của A. Theo quy định tại Bộ luật hình sự sửa đổi năm 2009 thì hành vi của B có thể sẽ bị truy cứu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:

“Điều 139. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 

1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

…”

B có hành vi dùng thủ đoạn gian dối làm cho chủ sở hữu tài sản là A tin nhầm giao tài sản cho B để chiếm đoạt tài sản đó. B có mục đích từ trước, dùng thủ đoạn của mình để A giao tài sản cho mình. Tài sản B chiếm đoạt có trị giá tới 12.000.000 đồng. Như vậy, hành vi của B đã cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 Bộ luật Hình sự (đã sửa đổi, bổ sung 2009).

Trong trường hợp 2: B nảy sinh ý định chiếm đoạt sau khi mượn xe của A. Điều 140 Bộ luật Hình sự (đã sửa đổi, bổ sung 2009) quy định như sau:

Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;

b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản”.

Trong trường hợp của bạn, B đã có được chiếc xe máy hợp pháp thông qua sự đồng ý cho mượn từ A. Sau khi có được tài sản, B không trả lại xe và đi cầm lấy tiền và bỏ trốn. Như vậy hành vi của B đã cấu thành nên tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Thứ hai, về việc tố giác hành vi phạm tội của B.

Tố giác tội phạm là quyền và nghĩa vụ của Công dân. Điều 101 Bộ luật Tố tụng hình sự 2005 quy định: “Công dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan khác, tổ chức. Nếu tố giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản và có chữ ký của người tố giác”.

Hành vi của B đã cấu thành nên tội phạm theo quy định của pháp luật, xâm phạm tới quyền tài sản của em trai bạn. Để bảo vệ quyền lợi cho em trai, bạn có thể gửi đơn tố giác cùng với các chứng cứ kèm theo  đến cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận tố giác về tội phạm theo quy định tại Điều 101 Bộ luật Tố tụng hình sự (được hướng dẫn cụ thể tại Điều 5 Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 02/8/2013).
 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Bỏ trốn khi mượn xe của bạn rồi đi cầm có cấu thành tội phạm không?. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến bộ phận luật sư tư vấn trực tuyến - Số điện thoại liên hệ 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng

C.V Trần Hiên - Công ty Luật Minh Gia

 

 

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Đặt câu hỏi tư vấn
Chat zalo